Bùa Ngãi ở San Jose

Khi tôi đến bấm chuông ở ngôi nhà số 2924 Garden Avẹ, San Jose, CA 95111 vào lúc 03:00 giờ chiều ngày 26-11-2002 thì một người đàn bà đứng tuổi, có làn da mịn hồng đã mở cửa bước ra mời tôi vào nhà.
Cánh cửa rất hẹp mặc dầu ngôi nhà cũng khá rộng. Qua khỏi cửa, tôi ngửi thấy mùi nhang khói và mùi trầm hương cùng với mùi nước hoa quyện vào nhau ở bên trong căn nhà. Người đàn bà lại mở một cánh cửa rất hẹp vừa cho tôi nghiêng người lách qua để đi vào một căn phòng khác nằm chếch bên trái của cửa chính ra vào. Đây là cả một thế giới huyền bí của người đàn bà đã gọi điện thoại cho tòa soạn Việt Báo để mời tôi đến thăm cơ sở kinh doanh của bà ta.
Cơ sở của bà là một căn phòng nhỏ lối hơn 10 thước vuông. Khắp bốn bức tường và ngay trên cánh cửa vào phòng đều được dán kín với những hình bùa phép, các tượng ảnh mang những biểu trưng bí ẩn gì đó. Phía tường ngay lối cửa là một bàn thờ đủ các loại thần linh và tượng Phật theo điêu khắc của Thái Lan. Chung quanh bàn thờ là các lá bùa vẽ rồng rắn khó hiểu và dưới chân tượng Phật là các loại hoa quả, và đặc biệt có mấy mâm chứa đầy trứng vịt sống với nhang đèn nghi ngút. Bức tường đối diện với bàn thờ là bàn làm việc của người đàn bà được đặt sát một cửa sổ nhỏ làm bằng kính mờ.
Bua ngai o San Jone

Người đàn bà ngồi vào chiếc ghế phía sau bàn làm việc, lưng bà sát vào cái kệ tủ có nhiều ngăn lộ thiên đặt những cái khay lớn nhỏ khác nhaụ Trên từng mỗi cái khay có những hàng chữ viết bằng chữ Việt dán lên như những ngăn tủ thuốc có đề tên trong một tiệm thuốc bắc. Các hàng chữ ghi rõ như “Bùa đem chồng con về”, “Phép uống thương”, “Bùa hộ mệnh bình an”, “Phép sang bán xe nhà tiệm quán”, “Phép đốt móng”, “Giải bùa thư yếm”, “Phép đốt”, “Bùa lớn”, “Nàng Quốc”, v.v…
Tôi ngồi xuống cái ghế duy nhất đặt đối diện với người đàn bà. Sát cái bàn ngay bên cạnh tôi là một tủ sắt nhỏ có từng ngăn chia thành nhiều hàng và mỗi hàng lại ngăn ra từng ô nhỏ bên ngoài đề các tên khác nhaụ Nhìn qua lớp kính mỏng tôi thấy bên trong giống như là những loại rễ cây hoặc lá khô.. Người đàn bà đưa tay bật sáng cây đèn loại dành cho bàn viết và chiếu ánh sáng vào phía những ngăn nhỏ trên tủ sắt rồi nói:
- Đây là 100 loại Ngãi quý nhất mà tôi có đủ. Tôi cam đoan chắc rằng hiện nay có nhiều người nuôi Ngãi, nhưng không ai có những loại Ngãi quý hiếm nầy.
Người đàn nhìn tôi chăm chú như muốn xem phản ứng của tôi như thế nàọ Bà ta chìa ra trước mặt tôi một tờ Việt Báo đã cũ và một tờ giấy ghi tên tôi, địa chỉ tòa soạn Việt Báo và số điện thoại:
- Tôi đã đọc bài của ông viết về nhiều cơ sở trên Việt Báo rất vô tư và xây dựng. Có một cái chợ tôi tưởng rằng nó đã chết, nhưng nhờ bài viết của ông mà nó sống lại sầm uất. Tôi đã ghi tên ông và địa chỉ để liên lạc nhưng tôi phải đi về Thái-Lan thỉnh phép một thời gian. Nay trở lại San Jose, tôi mạnh dạn gọi điện thoại mời ông đến xem xét công việc của tôi đang làm.
- Bà có thể vui lòng cho tôi biết bà làm nghề gì? Việt Báo chỉ giới thiệu người thật, việc thật, công việc hợp pháp mà thôị Sự giới thiệu là hoàn toàn miễn phí.
Người đàn bà đưa ra Giấy Phép Hành Nghề và nói: “Xin gọi tôi bằng Cô là được rồi.” Tôi chưa có chồng và không bao giờ được phép gần đàn ông về thể xác. Đây là License của tôi. Việc làm chính của tôi hiện nay là “Làm phúc, là cứu người”.
Tôi nhìn khắp căn phòng, dưới chân bàn thờ có hình mấy người đã chết… Trên khung cửa vào phòng có thờ hàng chữ của Đức Mohammed là nhà Tiên Tri của Hồi Giáo. Tôi hỏi người đàn bà:
- Cô xem chỉ tay, tướng số, bói bài phải không?
- Không, tất cả những thứ đó tôi đều biết, nhưng không xem bói toán cho ai. Ngoại trừ có ai đó thân tình cần tôi giúp. Tôi xin nói thẳng rằng tôi là một Thầy về Bùa Ngãi chuyên nghiệp nhưng tôi không làm chuyện thất đức, không dùng Bùa Ngãi để thư yếm hại ai bao giờ. Ngược lại tôi đã giúp cho bao nhiêu gia đình tan nát được đoàn tụ hạnh phúc. Những người bỏ vợ, bỏ chồng đi lang chạy theo người khác tôi đã giúp kéo họ trở về sống lại với nhau.
Tôi giúp cho những người bị mất của được tìm lại tài sản đã mất; giúp cho người ta tránh được tai nạn chết chóc; giúp cho các người kinh doanh được mua may bán đắt, có nhiều khách… Nói tóm lại, tôi chỉ muốn giúp người. Tôi cũng giúp giải cứu nhiều người bị các thầy bùa ngãi độc ác thư yếm mà đã đi nhiều nơi nhưng không ai giải phá cứu được. Và đặc biệt là tôi có thể chữa được một số bệnh như bị phong thấp bại xuội, bị mặt đầy mụn nhọt ghẻ lở.
Tôi sẽ chữa lành cấp tốc mà tôi không hề lấy của ai đồng xu nào khi tôi chữa trị giúp họ. Những ai bị tê thấp không giở tay lên được hay không bước đi được, tôi chỉ đọc lời cầu chú và cào vuốt chỗ đau lập tức họ sẽ khỏi trong vòng lối 15 phút. Người bị bệnh lâu vài chục năm thì ít ra cũng phải được tôi chữa trong lối 3 lần mới hết.
Trong khi nói chuyện với bà thầy Bùa Ngãi, phái viên Việt Báo nghe điện thoại của bà hầu như cứ năm bảy phút lại reo lên liên tục. Nhiều người gọi xin hẹn giờ hay xin thỉnh bùa, thỉnh phép. Tôi hỏi người đàn bà:
- Mỗi người khách cô lấy bao nhiêu tiền?
- Tôi không lấy bao nhiêu cả. Chữa trị bệnh hoàn toàn miễn phí. Những ai đến thỉnh Bùa, Ngãi hay cần giải cứu thì tùy theo kết quả mà họ đạt được, họ đến trả lễ bao nhiêu là tùy hỷ. Có người cho tôi vài đồng, có người cho vài chục, nhưng cũng có nhiều người cho tới vài trăm hoặc vài nghìn Đô-La.
- Như vậy chắc cô kiếm được nhiều tiền lắm vì tôi nghe điện thoại xin gặp cô liên tục.
Ngưới đàn bà đưa ra trước mặt tôi nhiều tờ báo xuất bản tại Việt Nam như Báo Lao-Động, báo Tuổi Trẻ, báo Công An, báo Phụ Nữ và cả báo viết bằng tiếng Anh có tên là Saigon Times. Những báo đó xuất bản phát hành các năm khác nhau và đều có bài viết và hình ảnh đăng tải về người đàn bà mà tôi đang tiếp xúc. Trên báo Saigon Times xuất bản tháng 9 năm 2000 có bài viết ký tên Le Toan với tựa đề “US. Family Gives Food Parcels to The Poor” đã viết rằng “SGT-HCMC) A Vietnamese family living in the ỤS. town of San Jose have donated 2,000 food parcels valued at VND40,000 each for distribution among poor residents of HCMC’s District 4 during the family matriarch’s annual Vietnam visit…” (Tạm dịch: Một gia đình ở San Jose đã tặng 2,000 gói lương thực trị giá 40,000 đồng VN mỗi gói cho dân nghèo Quận 4, Sài Gòn, khi họ về thăm nhà hàng năm…)
Bên cạnh bài viết là hình của người đàn bà đang trao gói quà cho một phụ nữ nghèo. Dưới tấm hình ghi là “Mrs Le Khanh hands a food parcel to a poor woman”.
Trong khi đó tờ báo Kinh Doanh & Tiếp Thị trong một bài khác có đăng hình ảnh của bà LỆ KHANH đang trao quà cho những gia đình nghèo tại Quận 4 Sài-gòn vào ngày 04-9-2001. Bài báo thường thuật rằng Bà Lệ Khanh sống tại San Jose đã về Việt Nam tặng quà lần thứ 13 cho 2.000 gia đình nghèo mỗi gia đình một phần quà gồm gạo, bột ngọt, mì gói, dầu ăn, nước tương, muối bột.
Bua ngai o San Jone

Ngoài ra bà Lệ Khanh cũng tặng 300 phần quà tại Quận 8 Sài-gòn trong dịp Tết Trung Thu và cho các Hội Bảo Trợ, các nhà tình thương, các mái ấm trẻ em đánh dày và thiếu nhi ngoài đường phố mỗi nơi 100 Mỹ-kim. Bài và ảnh chụp do phóng viên Cẩm Thanh viết nói rằng đây là lần thứ 13 bà Lệ Khanh phát tặng quà cho người nghèo tại Sài-gòn. Những bài báo khác xuất bản tại Sài-gòn có đăng hình ảnh và bài tường thuật bà Lệ Khanh đang phát tặng quà Noel cho 1,000 hộ gia đình nghèo tại Phường 12 Quận 4 Sàigòn.
Người đàn bà chuyên nghề Bùa Ngãi đưa cho tôi xem các quảng cáo của bà đăng trên vài tờ báo tại San Jose và nói với tôi:
- Tôi không được ăn thịt. Hằng ngày khách thập phương đưa gà, vịt và hằng giỏ đầy trứng, trái cây đến cúng tổ, tôi nuôi Ngãi xong là cũng bỏ đi. Thực phẩm hằng ngày của tôi là do người thập phương cho tôi ăn. Tôi chẳng thiếu thốn gì cả. Tôi chỉ giúp người và nếu có ai cho tiền bạc hay gởi tiền cúng tổ, tạ ơn thì tôi thu gom mang đi làm việc nghĩa, làm việc bố thí từ thiện cho dân nghèo. Tôi về Việt Nam và đã tặng thực phẩm cho người nghèo được 13 lần. Những lần đầu thì chỉ tặng cho 1.000 gia đình nghèo thôi, nhưng những lần sau thì 2.000 gia đình, rồi mới đây là nhiều hơn.
Khi tôi tặng quà thì có chính quyền địa phương, báo chí và cả Công An của CSVN đến kiểm soát. Tôi chỉ giúp người nghèo mà thôi. Và vì vậy, tôi chỉ làm chuyện tốt, không dùng bùa ngãi để trục lợi cho cá nhân mình hay đi hại người khác. Tôi không cần tiền cho cá nhân tôi nên chẳng có ai có thể dùng tiền bạc để sai khiến tôi làm bậy như thư yếm hại phá người nào.
Báo Saigòn Times ghi bà Lệ Khanh 68 tuổi, tôi hỏi về cá nhân bà, bà kể:
- Tôi có thể nói tiếng Việt Nam và có tên Việt Nam là LỆ KHANH, nhưng tôi không phải là người Việt. Tôi là người Thái-Lan, thuộc một bộ tộc thiểu số gốc Chăm tại vùng núi Shakhon miền Bắc Thái-Lan. Bộ tộc tôi theo Mẫu Hệ, tên ông ngoại của tôi là Thầy Bùa Ngãi Kha-Mắt-Kham Bi-Rô kiêm Già Làng trong toàn bộ tộc. Tên thật của tôi là KHA-LAY-MAỴ Chúng tôi theo Hồi Giáo nhưng không cuồng tín và không chấp nhận khủng bố. Theo tục lệ, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được bộ tộc dành cho một cái hủ chứa các viên sỏi để tính tuổi của mình.
Lúc tôi được 8 viên sỏi thì tôi bị bệnh nặng và mê man nhiều ngày. Ngoại của tôi đã dùng bùa ngãi chữa cho tôi lành bệnh. Nhưng ngay sau đó trong bộ tộc bị bệnh dịch tả gây chết hằng loạt và dân khắp vùng kéo đến yêu cầu đốt tôi thành tro vì cho rằng tôi đã chết mà nay sống lại làm con Ma Lai về giết hại dân buôn bản. Ông Nội tôi là nhà chân tu Phật Giáo Thái Lan đã bàn với ông Ngoại tôi và hai gia đình đành chuẩn bị thực phẩm gởi tôi cho một đoàn người buôn lậu đưa ra khỏi vùng. Khi ra đi, ông ngoại tôi cho tôi mang theo một túi bùa ngãi mà tôi được huấn luyện từ khi mới lên 3 viên sỏi.
Ngoại đọc bùa chú cho tôi đi và nói rằng khi tôi lớn lên là không được gần đàn ông và phải làm nghề bùa ngãi để cứu nhân độ thế. Đoàn buôn lậu đưa tôi băng rừng trong nhiều ngày đêm và cuối cùng đến gởi tôi tại một già làng thuộc buôn Thượng ở khu vực Mai Thôn gần Đà-Lạt. Khi tôi được 12 tuổi thì tôi hái lan rừng mang ra chợ Đà-Lạt bán và tôi được gặp một phụ nữ Việt Nam tên là LỆ KHANH, đã đưa tôi về nhà ở chung để giúp đỡ tôi. Tôi thực sự ở với chị Lệ Khanh vào lúc tôi 16 tuổi và tên thật của tôi là KHA-LAY-MAY nên cả nhà gọi tôi là MAY.
Tôi nói được tiếng Thượng, tiếng Thái và nay chị Lệ Khanh dạy thêm cho tôi tiếng Việt. Chồng chị Lệ Khanh là anh Trần Văn Hải, đã quyết định đưa gia đình về Sài-gòn sinh sống vào khoảng năm 1970. Tôi đi theo và nhờ đó tôi có dịp quen với các anh chị đào kép Cải Lương. Tôi kiếm được ít tiền và sang lại Đoàn Cải Lương Hoa Anh Đào – Kim Chưởng để làm bầu gánh một thời gian. Thời gian nầy tôi có dịp trở lại Thái-Lan tìm về nguồn gốc của tôi. Tôi đã tìm được các thầy Bùa Ngãi cấp đẳng cao cường và được truyền lại các bí quyết trong nghề Bùa Ngãi nhưng tôi phải thề không được dùng Bùa Ngãi để ếm hại người khác.
Đến năm 1971 thì chị Lệ Khanh bị bệnh và qua đời. Anh Trần Văn Hải chồng chị làm việc cho Mỹ ở Kho 5 có 3 đứa con gái và tôi thay chị Lệ Khanh để lo cho các con của chị mà tôi xem như con ruột của mình. Chúng cũng gọi tôi bằng mẹ mặc dầu tôi nhỏ tuổi hơn chị Lệ Khanh.
Sau khi Việt Cộng chiến Sài-gòn, anh Hải đưa các con về làm rẫy tại Long Khánh gần Trại giam K3 tức Z30D. Tôi cũng đi theo và một hôm lúc tôi đang làm rẫy, thấy anh em tù Sĩ quan cải tạo đi qua rách rưới và đói khát, tôi kiếm tiền mua đường thẻ ném cho anh em chia nhau Tụi Việt Cộng bắt gặp và bắt giam tôi, đánh đập tôi tàn nhẫn rồi nhốt tôi 2 năm tại trại B5 Biên Hòa về tội làm gián điệp cho Mỹ Ngụy.
Bà Kha-Lay-May kể tiếp: “Khi ra khỏi tù, tôi nghĩ phải tìm mọi cách ra khỏi Việt Nam vì sống với Cộng Sản thì các con của chị Lệ Khanh chẳng thể nào có được tương lai. Thế rồi, tôi quyết định dùng bùa ngãi để nói chuyện với Cục Quản Lý Xuất Nhập Cảnh của Cộng Sản tại Sài-gòn. Tôi lấy giấy tờ của chị Lệ Khanh sinh năm 1940 nay đã chết và khai là giấy tờ của tôi. Anh Hải là chồng của chị Lệ Khanh nay trên giấy tờ là chồng của tôi và các con của chị đều là con tôi cả. Tôi lấy Oxy Già để nhuộm vàng tóc của một đứa con gái và Cán bộ Công An ở Sài-gòn đã giúp tôi khai giấy tờ là tôi có chồng tên là Trần Văn Hải, sau đó chồng tôi bỏ mấy mẹ con tôi đi theo người khác nên tôi đi làm sở Mỹ nên quen với một lính Mỹ và có riêng một đứa con gái lai Mỹ.
Rồi sau khi Cộng Sản vào thì chồng tôi trở về lại nên gia đình tôi sum họp và chồng tôi cũng có công giúp tôi nuôi đứa con gái lai Mỹ thành người. Nhờ đó, khi đi phỏng vấn thì cả gia đình anh Hải và tôi đã được xuất cảnh đến San Jose. Chúng tôi nay vào quốc tịch Mỹ và mua nhà tại 2924 Garden Avẹ, San Jose, CA 95111, Tel. (408) 365-8043. Tôi mang ơn Việt Nam và nay tôi hành nghề bùa ngãi để nếu được ai cho đồng nào thì tôi lại mang về giúp đỡ những người nghèo khổ tại Sài-gòn. Ở San Jose, nhiều thầy bùa ngãi người Miên thường ăn tiền để đi thư yếm người khác.
Tôi đã giải bùa cho nhiều người Việt Nam gặp nạn bị thư yếm và tôi đã cứu họ được sống. Tôi giúp cho nhiều người làm ăn thịnh vượng và giúp trị các người bị phong tê thấp liệt tay chân. Những bệnh như thế tôi chỉ đọc lời khấn và vuốt vài cái là họ có thể hết ngay tức thì. Tôi không lấy tiền khi giúp người bệnh. Những ai bị mụn đầy mặt, tôi cũng chữa khỏi ngay và da mặt họ sẽ láng o như da mặt của tôi. Những người đến trị mụn tôi cũng không lấy tiền, tuy nhiên họ có thể cho anh Hải một vài đồng vì anh ấy sát trùng dụng cụ. Những ai mất của, hãy mang theo một đứa bé trai từ 8 tuổi đến 10 tuổi. Ðứa bé đó sẽ nhìn vào bàn tay của tôi và thấy được ai là người đã ăn cắp giống như nhìn lên màn ảnh TV để xem phim vậy.
Việt Báo viết bài nầy như một chuyện lạ để đọc giả tìm hiểu. Giữa thời đại văn minh tại sao có những hiện tượng bùa ngãi lạ lùng nầy. Những ngày kế tiếp sau đó, phái viên Việt Báo bất chợt đến xem một số khách đến xin giải bùa hay xin tìm của bị mất. Một phụ nữ bỏ toàn bộ nữ trang và $30,000 tiền mặt vào trong một chiếc giày ống cao cổ để định mua Mobile Home, nhưng đã bị mất sạch và bị người chồng chửi rủa thậm tệ là lấy tiền cho traị Người vợ được bạn giới thiệu đến xem và đã dắt theo một đứa cháu trai 9 tuổi của bên chồng và không cho đứa bé biết trước chuyện gì.
Khi thằng bé nhìn vào bàn tay phải của bà Kha-Lay-May, nó nói: “Cô ơi, con thấy chú Tám lấy một chiếc giày ở dưới giường ra và thò tay vào trong chiếc giày lấy ra một gói đồ gì đó…và…chú Tám lái xe đem gói đồ đến đưa cho Cô Út”.
Người phụ nữ mất của đứng bật dậy như cái lò xo: “Trời ơi, ông chồng tui. thế mà cứ chửi tui hoàị. lấy hết gia sản qua đưa cho em ruột không biết đang tính chuyện gì đây!”
Người phụ nữ mừng rỡ bỏ vào lọ cúng tổ 30 Mỹ-kim và bước ra ngoài. Người phụ nữ xin miễn ghi tên tuổi vì sợ nói ra bỉ mặt người chồng!
Chuyện nghe thật khó tin, nhưng đang có thật trong một đất nước văn minh hiện đại như Hoa Kỳ

Bóng ma trong biệt thự

Ðã gần 5 giờ chiều, Hùng Dũng cố kết thúc buổi họp với các nhà thương gia cho xong để còn nôn chân đi đến nơi hẹn với người buôn bán nhà cửa đất đai. Trong lòng Hùng Dũng rất vui sướng, vì trãi qua bao nhiêu năm chắt chiu cực nhọc, Hùng Dũng đã gần toại ý nguyện để mua được một căn nhà sang trọng ở lưng triền núi. Hùng Dũng cùng vợ mình đã đi xem rất nhiều các căn biệt thự được xây cất ở các dãy núi cao của vùng Silicon Valley, nhưng cả hai chưa vừa ý một căn nào. Hùng Dũng muốn một ngôi nhà có giá trị ngang tầm cỡ với những người mà miệng đời thường gọi là “đại thương gia” hay các “nhà triệu phú” đang làm ăn chung với Hùng Dũng. Chẳng những thế, ước vọng của Hùng Dũng cho con mình lớn lên được cao sang quyền quý với thiên hạ. Ðây là căn nhà thứ sáu mà Hùng Dũng cùng với vợ sẽ đặt chân đến xem qua cho ưng ý. Hùng Dũng ghé ngang văn phòng nha sĩ do chính vợ chàng làm chủ để đón nàng đi xem căn nhà mơ ước này. Hai người vẫn hoang mang vì chưa biết sẽ chọn mua cho mình được một căn nhà theo ý thích hay chưa? Hùng Dũng lái xe đưa vợ mình lên dốc núi cao ở độ 3000 feet, cái bản đồ điện tử trong xe dẫn hai người theo những khúc quanh co lần tìm đến cái địa chỉ mà vị thương gia địa ốc đã ghi rõ. Trời bắt đầu tối mịt vì mùa đông lạnh đã bao phủ khắp thành phố, Hùng Dũng lái xe càng lúc càng lên cao hơn của quả núi trùng điệp với thông già và cỏ cây hoang dã… Theo dõi bản đồ chầm chậm xe lại để tìm lối rẽ vào một ngõ vắng. Hùng Dũng vẫn chưa nhìn ra địa chỉ và số nhà của dinh thự sau khi bản đồ trong xe vẽ đường chỉ lối. Hùng Dũng cho xe chạy thật chậm với tốc độ 15 dặm một giờ vì Hùng Dũng cẩn giác những con nai băng ngang đường. Trên con đường cây cối mọc thật sầm uất, từ xa vợ Hùng Dũng trông thấy một người đàn bà cùng lứa tuổi với mình đẩy chiếc xe nôi đi ngược lại, vợ Hùng Dũng có ý muốn hỏi thăm đường, nên bảo Hùng Dũng tấp xe vào lề, vợ Hùng Dũng quay kiếng xe xuống, chờ cho người đàn bà đó tiến lại gần hơn. Hùng Dũng cùng vợ trông rõ người đàn bà người Mỹ trắng đang đẫy chiếc xe nôi với đứa con nằm trong đó, vợ Hùng Dũng chào hỏi bà ta và hỏi đường vào hướng New York House Road. Bà ta vui vẽ trả lời, tay chỉ hướng cho hai vợ chồng Hùng Dũng rẽ ngã phải sau lùm cây, có một ngõ hẽm rẽ vào sẽ là con đường dẫn lối vào nơi mà vợ chồng Hùng Dũng muốn tìm. Con đường New York House Road thật khó tìm, vì cái bản tên đường bị che khuất bởi cây cối che khuất. Nếu không quen bước đi, bất cứ ai sẽ lái xe chắc sẽ vụt ngang và lạc lối ngay. Hùng Dũng với vợ thoạt nghĩ trong đầu như thế, chưa kịp cám ơn người đàn bà ven vệ đường đẫy con đi dạo thì bóng bà ta đã dần khuất xa sau cái ngã quẹo cong quanh sườn núi. Hùng Dũng theo sự chỉ dẫn ấy, rồi rẽ lối phải cho xe lăn bánh trên lối sỏi mòn tiến vào cổng sắt, trước mặt hai người là một ngôi nhà cao sang nằm trên vùng đồi núi có thông xanh mọc bao quanh. Khu đất này rộng hơn 10 mẫu, trồng cây ăn trái và hoa kiểng chăm sóc thật đẹp thắm. Ðó là những lời quảng cáo của vị buôn bán địa ốc làm cho Hùng Dũng cùng vợ nôn nao muốn đến xem qua. Cổng sắt đã rộng mỡ đón chào vợ chồng Hùng Dũng vào tận trong sân bãi. Hai vợ chồng ríu rít vui mừng dìu bước chân nhau lên bật thềm tam cấp, bấm chuông…Tiếng chuông cửa ngân nga từng hồi như tiếng chuông đồng hồ quả lắc theo kiểu xưa. Cánh cửa của giang biệt thự hé mở, người đàn ông chống nạng mở cửa mời vợ chồng Hùng Dũng vào nhà. Người thương gia điạ ốc đang ngồi trong phòng khách cũng đứng dậy hân hoan chào tiếp Hùng Dũng cùng vợ. Chủ nhân của căn nhà này là người đàn ông có tật cái chân bên trái lúc nãy đã chống nạng ra đón tiếp vợ chồng Hùng Dũng. Tách trà hãy còn ấm, đối thoại với nhau được vài lời, vợ chồng Hùng Dũng cùng với vị buôn bán địa ốc và ông chủ của căn nhà đi xem một vòng khắp sáu gian phòng rộng rãi, trống trơn. Căn biệt thự quá đẹp và sang trọng vì trang trí nội thất rất lạ mắt. Hùng Dũng cùng vợ xem qua và nhận lời mua với giá thoã thuận của người chủ. Họ hẹn nhau sáng sớm ngày mai sẽ lo xong thủ tục giấy tờ sang nhượng căn dinh thự này với giá 3 triệu mỹ kim.
Bong ma trong biet thu

***
Vợ chồng Hùng Dũng mừng tiệc tân gia thật linh đình. Các bạn bè có chức vị nâng cốc vui mừng cho vợ chồng Hùng Dũng vừa bước lên một ngôi cao, riêng với Hùng Dũng, sự hạnh phúc nhất đời là đã xây được một “lâu đài tình ái” cho vợ mình và đó cũng chính là một tổ ấm mà vợ chồng Hùng Dũng tạo dựng nên cho đứa con trai đầu lòng vừa tròn sáu tuổi. Hai vợ chồng sống với nhau trong một căn nhà quá rộng thênh như vậy có lúc cũng cảm thấy trống trải làm sao. Ngoài hai phòng riêng dành cho vợ chồng Hùng Dũng và cậu con trai. Tám phòng ngủ còn lại rất lạnh vì thiếu hơi ấm của người. Hùng Dũng cùng với vợ vẫn phải miệt mài với công việc cơm áo, còn đứa con trai thì phải gửi vào trường. Căn nhà bỏ lạnh cả ngày, chỉ có bác chăm sóc vườn hoa và dọn dẹp nhà cửa trong ngày. Tối đến, hai vợ chồng súm sít cùng con quanh bàn ăn cho xong một bữa cơm tối, rồi tụ nhau xem ti vi và ai về phòng nấy mà ngủ vì còn một ngày dài sẽ gánh nặng trên vai.
Ở trong căn nhà rộng lớn này đã hơn một tháng, có những lúc về khuya khi vợ và con đã ngủ say. Hùng Dũng vào phòng là nơi riêng dành để làm việc cố tâm mà soạn thảo cho xong các văn bản thương mại của công ty. Hùng Dũng chăm chú vào máy vi tính in ra những lời biên soạn cho buổi thuyết trình vào sáng mai. Hùng Dũng ngồi trong phòng giấy, chờ cho máy in từng tờ văn bản. Không gian thật im lắng, bỗng Hùng Dũng nghe như có tiếng người nói cười, tiếng nước chảy, âm thanh như thể có ai đó đang rửa chén úp vào trong sống dưới nhà bếp. Hùng Dũng chỉ nghe tiếng động và nghĩ đó là một dư âm nên chẳng hề để ý thêm. Hùng Dũng tiếp tục chú tâm vào máy vi tính, làm cho xong nốt công việc của mình. Ðồng hồ đã điểm đúng 0 giờ. Hùng Dũng ngáp dài và cố nấn ná thêm vài phút cho xong công việc. Cái phòng làm việc của Hùng Dũng cách phòng ngủ của hai vợ chồng là hai căn phòng trống. Hùng Dũng chọn cái phòng này là nơi làm việc vì nó thoáng mát, rộng rãi, có những kệ sách đã đóng sẵn cùng các ngăn tủ cho Hùng Dũng xếp đặt hồ sơ. Hùng Dũng ngồi trong văn phòng mình làm việc trong đêm khuya, ngó ra ngoài trời tối như mực, căn nhà bao quanh với những hàng thông cao, nghẽo nghiêng vì vài ngọn gió đầu đông. Hùng Dũng đang gấp giấy tờ vừa in ra từ cái máy in cho theo thứ tự từng trang, rồi để vào cái cặp da . Bỗng Hùng Dũng nghe như có tiếng nước chảy của phòng tắm bên cạnh, rồi tiếp theo là tiếng khạt nhỗ như có ai đang sút miệng, một tiếng nước dội cầu tiêu nghe thật rõ tai làm Hùng Dũng nghi ngờ vì trong phòng ngủ của vợ chồng Hùng Dũng đã có phòng tắm riêng, lẽ nào vợ Hùng Dũng lại sang phòng bên cạnh mà dùng? Hùng Dũng cũng mệt mỏi lắm rồi, nên tắt đèn về phòng riêng tìm vào giấc ngủ. Thấy vợ mình đang ngủ say, chàng lẽn nhẹ nằm kế bên, kéo chăn đắp ngang người, cố xua đuỗi đi những ý tưởng trong đầu mà tự mình ru lấy một giấc ngủ ngon…
Vài hôm sau, Hùng Dũng lại phải làm việc vào đêm trong văn phòng. Hùng Dũng vẫn nghe dưới bếp nhà có ai đó đang rửa chén úp vào sống, có tiếng chân người bước đi trên nền gỗ. Hùng Dũng không tin ở tai mình, mà bước chân lần xuống dọc theo cầu thang vào nhà ngay nhà bếp. Hùng Dũng thấy phòng ăn im tĩnh, ánh đèn trên trần nhà còn sáng. Hùng Dũng tự tin vì mình hay vợ đã quên tắt đèn trong nhà trước khi đi ngủ, nên gặt tắt đèn và trở gót quay về phòng làm việc. Hùng Dũng mới ngồi vào ghế, hai bàn tay vừa đặt lên bàn phím của máy vi tính thì lại nghe tiếng động như có ai kéo ghế ngồi dưới phòng ăn. Tiếng kéo ghế nghe thật rõ, như có hai người kéo ghế ra và nhích ghế vào cùng ngồi lại nhau cạnh bàn ăn. Hùng Dũng im tiếng một hồi để lắng nghe tiếng động ở dưới bếp và nhẹ chân bước xuống xem động tĩnh. Ðèn trong phòng ăn Hùng Dũng vừa mới tắt lại rực sáng, hai cái ghế ngồi đặt ở đầu và cuối bàn ăn lại kéo ra, không ở vị trí sát bàn như vợ chồng Hùng Dũng đã dọn lại sau khi ăn tối. Hùng Dũng kéo ghế lại, rồi tắt đèn một lần nữa và quay lưng bước đi lên lầu trên trở lại văn phòng làm việc. Hùng Dũng nghĩ ngợi trong óc, chắc là cái công tắc đèn bị hư nên đèn tự bật sáng, mà mấy chiếc ghế quanh bàn ăn cơm thì khác. Vì Hùng Dũng ngồi ngay đầu bàn, và vợ Hùng Dũng ngồi ngay bên cạnh với đứa con trai ăn tối. Sao cái ghế ở cuối bàn đâu có ai ngồi mà sao lại kéo ra? Hùng Dũng nhớ rất kỹ là ghế ngồi đã được đẫy sát lại vào cạnh bàn ăn sau bữa tối? Hùng Dũng chả tin vào mình nữa, chắc có lẽ quên. Hùng Dũng xong việc ở bàn giấy, rồi về phòng yên nghĩ…
Vừa mới đặt lưng xuống, Hùng Dũng chưa kịp chợp mắt thì lại nghe có tiếng ai đó đóng cửa phòng bên cạnh. Một căn phòng trống mà vợ chồng Hùng Dũng dùng nơi đó cho các khách thăm viếng ở lại đêm như những phòng trống khác. Hùng Dũng nghe tiếng đóng cửa mạnh và dường như có bước chân người nên Hùng Dũng chồm ngồi dậy, nhón nhè nhẹ bước kẽo đánh thức vợ sang phòng kế bên xem. Hùng Dũng không thấy gì cả, rồi sang phòng đối diện mở cửa nhìn thằng bé Út đang ngủ say. Hùng Dũng yên tâm hơn vì sợ trộm vào nhà, rồi quay lại giường khẽ đặt lưng xuống mà ngái ngủ…
Hùng Dũng nghĩ vấn vơ trong đầu vì những tiếng động mà Hùng Dũng thường nghe lúc về đêm khi trong nhà ai cũng đã đi ngủ, chỉ có mình Hùng Dũng thức khuya hơn làm việc trong phòng. Ðôi lúc Hùng Dũng muốn nói cho vợ nghe nhưng lại thôi vì Hùng Dũng không muốn cho vợ mình sợ sệt và có ý nghĩ mông lung như thế. Tính Hùng Dũng vốn đã không tin vào những chuyện hồn ma bóng uế như bao câu chuyện đã kể lại. Ðến khi vợ Hùng Dũng nhắc nhỡ chàng là nên nhớ tắt đèn đóm, hay đóng cửa cái tủ lạnh hoặc đậy nấp cái nồi cơm điện trong bếp nếu lỡ lúc Hùng Dũng làm việc khuya đói bụng tìm xuống bếp. Nghe vợ dặn thế và có ý như cằn nhằn vì sáng nào vợ Hùng Dũng cũng thấy đèn trong bếp không tắt, hay nắp nồi cơm không đóng lại. Hùng Dũng ngồi im trong buổi ăn sáng nghe những lời của vợ và đâm ra nghi ngại. Hùng Dũng tự nhủ trong lòng: “không lẽ căn nhà này có ma?”
Ý nghĩ của Hùng Dũng tan biến trong phút chốc vì một ngày bận biệu với công việc còn chờ đợi Hùng Dũng. Sau bữa ăn trưa họp hội cùng với các nhà thương gia, Hùng Dũng muốn trở về nhà thoải mái nghỉ ngơi rồi sửa soạn một buổi ăn tối cùng với vợ con, chúc mừng cho một sự thành công trong doanh trường thương mãi của Hùng Dũng. Vẫn con đường đó, ngay lối ngã quẹo vào gia trang của Hùng Dũng, Hùng Dũng trông thấy bóng dáng của người đàn bà đẫy chiếc xe nôi hôm nào. Hùng Dũng vừa lái xe và vẫy tay chào bà ấy. Hình bóng người đàn bà đẫy xe nôi không sao mất dạng nhanh như vậy vì Hùng Dũng lái xe chậm và nhìn sau kiếng hậu, Hùng Dũng không trông thấy một bóng dáng ai…
Hùng Dũng vào đến nhà thay đồ ra cho thoãi mái, nằm lên ghế trường kỹ xem ti vi. Hùng Dũng lim dim mắt chập chờn muốn đánh một giấc trưa, mắt lờ đờ nhìn vào màn ảnh muốn xem nốt một cuốn phim hay…Hùng Dũng buồn ngủ chợp mắt đi một tí, nửa mơ nửa tĩnh hay chăng? Hùng Dũng thấy có một bóng ai đó đang ngồi dưới chân chàng và nhe răng cười, mắt nhìn chăm về hướng mình. Hùng Dũng chập chờn trong trong giấc thiếp, không biết là mình đang mơ hay đang tĩnh. Cái bóng hiện rỏ ngồi đó như bóng của một người đàn bà đang lay động vào chân Hùng Dũng như muốn đánh thức Hùng Dũng dậy, rồi đứng lên đi vào hướng nhà bếp. Hùng Dũng tĩnh hẳn người ngồi dậy như có ai kêu chàng thức giấc say nồng. Hùng Dũng nghe có tiếng chuông ngoài ngõ nên vội tung cái chăn bước gần đến cái security monitor nhìn ra xem ai rung chuông ngoài cổng trước khi mở cửa. Trong cái màn ảnh nhỏ, quay phim video trực tiếp từ cái cổng sắt bên ngoài, Hùng Dũng trông thấy người đàn bà quen thuộc mà Hùng Dũng hay gặp lúc lái xe trở về nhà. Hùng Dũng chỉ nghĩ rằng, người đàn bà ấy là hàng xóm, mỗi ngày hay đẫy xe đưa con đi dạo quanh khu vực này, hôm nay bà ấy muốn có dịp làm quen với vợ chồng Hùng Dũng hay chăng? Hùng Dũng vội bước ra mở cổng chính, muốn chào đón bà ta. Nhưng khi ra đến nơi thì không một ai ngoài cổng rào cả. Hùng Dũng nhìn quanh thì chỉ toàn là rừng thông, ngó ra lối ngõ, con đường trải sỏi dẫn vào cổng nhà không một bóng xe hay người qua lại. Hùng Dũng khép cổng lại, đi vào nhà tính tìm lại một giấc ngủ trưa, rồi sẽ cho vợ con mình một bữa cơm tối ấm cúng. Hùng Dũng khoá cửa cẩn thận, vào nằm lại trên chiếc sofa thì thấy ti vi đã tắt. Hùng Dũng chỉ nghĩ là Hùng Dũng đã tắt tivi trước khi ngủ, nhưng sao cái remote lại nằm ở phía chân và Hùng Dũng vẫn nhớ rõ là kênh tuyến Hùng Dũng đang xem lúc nãy là 550, sao bây giờ lại là kênh số 3? Hùng Dũng tin ở mình, dù có lim dim chập chờn, nhưng Hùng Dũng không thể ngủ như chết hay quên mình tự đổi kênh số trong lúc phim truyện đang diễn ra quá hay? Phân vân với mình một lúc, Hùng Dũng chả thèm tìm giấc trưa nữa, mà đi rửa mặt cho mát tĩnh, rồi bắt tay vào việc bếp núc, mong vợ con sớm về cùng với Hùng Dũng chung vui một bữa ăn thịnh soạn…
Trên bàn cơm vợ chồng Hùng Dũng đang sum vầy bên nhau, nhưng nét mặt của vợ Hùng Dũng tái sậm, Hùng Dũng không thấy vợ mình nói một câu nào cho gẫy gọn từ khi đón con về cho đến giờ. Miệng Hùng Dũng thì ríu rít kể về cuộc họp và những hợp đồng mới giao ước hôm nay và bận rộn gấp thức ăn cho vợ và con. Vợ Hùng Dũng như kẽ mất hồn, ngồi im lặng không hé miệng, tay chân bũn cả ra không cầm lấy được đôi đũa. Vợ Hùng Dũng cố gắng lắm thoát ra những lời kể lại cho Hùng Dũng nghe những gì nàng đã chứng kiến tận mắt, và chính nàng đã tiếp xúc với một hồn ma. Môi vợ Hùng Dũng tím lạnh như một xác chết làm cho Hùng Dũng rợn lạnh khắp người, tay buông cả đũa ngồi khép vế lạnh xuống cả hai bàn chân mà nghe vợ chàng thuật lại chuyện…
Cũng như mọi hôm, khi vợ Hùng Dũng rời khỏi văn phòng nha khoa, đi đón con ở nhà mẹ Hùng Dũng và lái xe leo dốc núi về nhà. Hôm nay lại khác, khi nàng lái xe vào lưng chừng dốc núi, nàng trông thấy người đàn bà đẫy xe nôi với đứa con như mọi hôm, có điều ngạc nhiên là sao hôm nay bà ấy lại ở dưới chân núi, nàng đang nghĩ thầm trong bụng, phân vân vì một khoãng đường rất xa, không lẽ nào bà ấy có sức đi bộ xa hằn dặm đưòng như thế… Trông thấy bóng dáng bà ấy đang đứng ngay gốc cây tùng, tay ra dấu như có ý muốn đi nhờ xe. Vợ Hùng Dũng quen mặt bà ta từ khi hỏi thăm đường vào căn nhà mới và thường khi vẫy tay chào trước khi quẹo vào cổng nhà nên tấp xe vào cho bà ấy cùng đứa con quá vận đường. Vợ Hùng Dũng vẫn ngồi trong xe, cạnh đứa con trai ngồi bên ghế trước. Bà ta xếp cái nôi lại, đặt đứa con vào phía ghế sau của người lái và bà ngồi kế cạnh bên, đóng cửa xe lại cho vợ Hùng Dũng tiếp tục lái xe. Vợ Hùng Dũng không có dịp trò chuyện với bà ấy nhiều, vì bà ta rất im lặng ngồi phía sau và chỉ hướng cho vợ Hùng Dũng lái về phía nơi bà cư ngụ. Vợ Hùng Dũng chăm chú lái xe, có lúc nhìn vào kiếng hậu, vẫn thấy mặt người đàn bà phúc hậu ấy đang ôm con vào lòng, bà hé miệng cười với vợ Hùng Dũng qua tấm kiếng. Vợ Hùng Dũng lái xe đến gần ngã quẹo vào nhà mình, nàng chậm xe lại, lên tiếng hỏi rằng nhà bà ở đâu, để vợ Hùng Dũng đưa về tới nơi. Khi vợ Hùng Dũng ngừng xe hẳn ngay cua quẹo, vì nàng thấy lạnh cả da người lên tới óc vì vợ Hùng Dũng không thấy bà ấy và đứa con còn ngồi trong xe mình nữa…Vợ Hùng Dũng như điếng người, sợ đến nỗi đái tiện trong quần vì sự tình rợn óc mới xãy ra…Chân nàng như yếu hẳn đi, không có sức để đạp vào cái pedal cho xe chạy vào tới cổng nhà…
Bong ma trong biet thu

Bữa cơm tối im lẵng và rất lạnh lùng. Không một ai lên tiếng, vợ chồng Hùng Dũng mặt lạnh như đồng bạc cắc, hai vợ chồng sống rất hạnh phúc không bao giờ cãi vả nhau trên bàn cơm, nhưng hôm nay thì khác, cái không khí im bặt tiếng nói cười như xua tan đi sự ấm cúng trong gia đình hơn bao giờ hết. Thằng con nhỏ ngây ngơ ngồi ăn vội cho xong bữa tối rồi chạy về phòng lo ham chơi trò chơi điện tử, thằng nhóc chả để ý gì về ba mẹ nó. Vợ Hùng Dũng ngồi yên như một xác chết. Nàng chưa thể nào hoàng hồn trở lại với những gì mà nàng đã chứng kiến trong đời, dù nàng sợ ma, yếu bóng vía thật, nhưng không thể nào tin được ở cõi đời này lại có ma. Hùng Dũng hoang mang một lúc khi nghe xong câu chuyện mà vợ Hùng Dũng vừa kể lại. Hùng Dũng nhớ lại cái lúc hình ảnh người đàn bà ấy đã bấm chuông kêu cửa đôi lần rồi không thấy bóng dáng bà ta đâu cả, Hùng Dũng tạm tin hơn về hồn ma, nhưng Hùng Dũng cố gắng lấy lại bình tĩnh và khuyên vợ hãy xua đuỗi những ảo tưởng trong đầu. Nhưng với riêng Hùng Dũng, lòng thầm nghĩ có một điều gì đó mà Hùng Dũng chưa có câu giải thích.
Tuy khuyên vợ cho nàng đừng sợ vì lúc nào cũng có Hùng Dũng bên cạnh. Thậm chí Hùng Dũng phải đi theo cạnh vợ mỗi lúc nàng muốn đi tiểu, hay trong bếp lo nấu ăn vì vợ Hùng Dũng có ý tưởng tượng như ai đang đứng sau lưng nàng. Từ khi sự việc ấy xãy ra, vợ Hùng Dũng không bao giờ lái xe về nhà một mình nữa, Hùng Dũng phải thu xếp thì giờ để đón đưa vợ và con vào mỗi buổi chiều. Ngày qua tháng đoạn, vợ chồng Hùng Dũng mỗi lúc lại bình tâm hơn vì không còn thấy người đàn bà “huyền bí” ấy đẫy con trong chiếc nôi đi xuống triền núi nữa. Họ yên tâm hơn, và tự tin rằng những lời khấn vái trong tâm, nên hồn ma không trêu chọc và nhát gia đình Hùng Dũng nữa.
Sự thực là: vợ chồng Hùng Dũng đã tìm đến một ngôi chùa và duyên phước của thí chủ nên gặp được một đức thầy tu luyện đến bậc Ðại Ðức Cao Tăng. Ngài nghe qua câu chuyện và truyền dạy cho hai vợ chồng Hùng Dũng những mật niệm mà chư tăng thường niệm để ma quỷ lánh xa. Ngài còn làm lễ chư Phật rất trang nghiêm và làm dấu ấn vẽ bằng hai ngón tay rồi đặt lên trán của hai vợ chồng cùng đứa con. Vợ chồng Hùng Dũng càng an tâm tịnh xác hơn vì không sợ những oan hồn ma quỷ sẽ quấy rầy mình nữa. Trước khi lạy tạ đức ân sư để quay gót trở về nhà, vợ chồng Hùng Dũng còn đặng phước báu tứ hồng ân từ vị Cao Tăng trong chùa trao tặng hai cuốn băng cassette. Cuốn băng này là những lời niệm mật chú, mentra, để hai vợ chồng Hùng Dũng nghe trong lúc lái xe. Ý ngài là cho nhân sinh được tịnh tâm niệm chú Phật, khi tâm có Phật ngự trong lòng thì mọi thứ sẽ đặng bình an.
Ðiều đó quả thật đúng, lời nói của vị sư kết hợp với lòng thành tín của vợ chồng Hùng Dũng tạo nên một niềm tin như núi cao không sợ sụp đỗ, cây cao không sợ gió bấc. Hùng Dũng rất vui trong lòng khi thấy vợ mình trở lại một người bình thường, không còn sợ hãi, hoang mang vì hồn ma bóng quế nữa, vì vợ Hùng Dũng không còn nhớ đến cái cảnh tượng ma quái hiện hình như lúc trước. Ðối với Hùng Dũng, chàng tin tưởng và kín trọng trong lòng ở một thế giới hư không mà người đời không chứng minh được một cách trọn vẹn, duy chỉ mình phải giáp mặt với hiện thực. Có đôi khi, Hùng Dũng ớn lạnh cả dọc xương sống trong lúc lái xe lên núi để về tận nhà vì Hùng Dũng nghĩ lại bóng người đàn ấy từ lúc ban đầu tìm đường đến căn nhà mà mình đang ngã giá…Hùng Dũng nghĩ thoáng qua, nhưng vội xua đuổi ý nghĩ tà ma ấy đi, Hùng Dũng lại lái xe và mở ngay cuốn băng có tiếng tụng kinh thật êm theo từng tiếng nhịp của chuông mõ trong chùa: “Nam Mô A Di Ðà Phật”.  truyen ma kinh di
Một thời gian rất ngắn khi Hùng Dũng cố tâm không nghĩ đến những sự kiện lạ lùng xãy ra quanh mình và không thể nào chứng minh là mình gặp ma, bị ma nhát hay vớ vẫn hơn là những tiếng động mà Hùng Dũng thường nghe thấy trong căn nhà. Tạo cho mình một niềm tin tựa trên những lời khấn niệm, nhưng tai Hùng Dũng vẫn nghe tuy rằng mắt thấy quanh nhà vẫn có những việc không giải thoát trong ý tưởng nghi nghi ngờ ngờ rằng trong nhà có ma. Biết vợ mình đã an tịnh trong tâm vì lời kinh niệm Phật, Hùng Dũng chưa bao giờ muốn kể cho vợ nghe những gì Hùng Dũng nghe thấy những cái lạ lùng xãy ra trong nhà. Sau một thời gian tiếng nước chảy trong bồn, tiếng kéo ghế dưới phòng ăn, tiếng chân bước trên cầu thang, tiếng ai đó đang rửa chén úp vào sóng chén mà Hùng Dũng nghe thấy được. Vợ chồng Hùng Dũng chỉ an tâm nhất là không còn thấy bóng dáng của người đàn bà với chiếc nôi đẫy con mình dọc theo bên vệ đường mà thôi. Ðêm nay lúc Hùng Dũng làm việc trong phòng giấy, Hùng Dũng lại ngửi thấy mùi hưong của cà phê thật thơm, như ai đó vừa pha một tách cà phê thơm ngát. Hùng Dũng nghe rỏ như có tiếng động ở dưới bếp, Hùng Dũng cảm giác thật rỏ ràng như tiếng lộp cộp của tách đĩa chạm vào nhau, rồi tiếng cà phê chảy vắt từng giọt một từ cái máy “Coffee Maker”. Hùng Dũng ngừng tay trên bàn phím vi tính, định chạy xuống bếp xem việc gì xãy ra, thì vợ Hùng Dũng cũng vừa choàng mình thức giấc vì mùi cafe bốc lên đến tận vào phòng ngủ. Vợ Hùng Dũng tưởng là Hùng Dũng đang pha café để uống vì thức đêm làm việc. Nhưng đó là một việc rất lạ vì nàng biết thói quen của chồng không lúc nào uống cà phê. Chỉ có nàng thích uống cà phê vào mỗi buổi sáng. Hùng Dũng không muốn làm cho vợ thêm hoang sợ, chỉ trấn an nàng là nàng chắc có lẽ mơ mộng. Hùng Dũng ngưng làm việc và lên giường nằm chờ vợ mình trở lại từ phòng tắm để cùng nhau ân ái và ru nhau vào giấc mơ tình.
***
Hôm nay là ngày Thứ Sáu, hai vợ chồng Hùng Dũng muốn dành trọn một ngày cho riêng họ. Hùng Dũng đi gửi thằng con cho bà nội, rồi sẵn tiện ghé chợ tìm mua một chai rượu thật ngon vị để cùng với vợ mình tìm phút lãng mạn. Hùng Dũng vui nhộn trong lòng lái xe về đến nhà. Miệng chàng đang huýt sáo, tay cầm chai rượu ung dung bước vào phòng ăn và véo von tiếng yêu đời cất lời kêu vợ mình:
-Honey, I am home! Má nó đâu rồi?
Hùng Dũng vừa gọi vang, vừa chạy lên phòng ngủ để tìm bà xã. Hùng Dũng mở cánh cửa phòng nhìn quanh chả thấy vợ mình đâu cả. Hùng Dũng nghe tiếng lộp cộp như có tiếng đánh máy trong phòng làm việc, Hùng Dũng nghĩ là vợ mình đang làm việc trên computer. Hùng Dũng vẫn huýt sáo, tay đẫy cửa phòng bưóc vào, chàng chả thấy ai cả, mà cái máy vi tính thì đã tắt im. Hùng Dũng vô tư nghĩ là vợ mình đang đùa, nàng đã hết sợ ma nên bây giờ muốn chọc nhát lại chàng hay sao? Hùng Dũng mạnh bước tiến vào phòng làm việc, vì Hùng Dũng thấy có bóng ai đang núp lén, quay mặt vào tường đứng giữa kẽ của kệ sách và cái tủ bàn đặt máy vi tính. Hùng Dũng vẫn tin là vợ chàng đang giỡn, muốn hù chàng một cái thật “hú hồn”. Hùng Dũng thấy rỏ cái hình bóng vẫn úp mặt và dường như đang khúc khích cười, nên Hùng Dũng ập tới định ôm chầm lấy vợ có ý nhát ma mình. Nhưng Hùng Dũng vừa chụp tay định vồ lấy bóng vợ mình đang núp, thì cái bóng người đã biến mất đâu. Hùng Dũng rợn cả da gà, gáy óc lạnh lên vì bóng người trước mắt quá rỏ rệt giữa ban ngày. Chàng mất cả vía, hai chân yếu ớt như muốn quỵ xuống nền nhà. Hùng Dũng bình tâm, niệm chú trong bụng để lấy lại bình tĩnh, và chạy vọt ào ra sân. Chàng tính cất tiếng kêu la vì sợ hãi, thì Hùng Dũng bỗng thấy bóng dáng vợ mình đang cầm mấy nhánh hoa mà nàng vừa cắt ở vườn nhà khoan thai từng bước chậm tiến về phía chàng. Lần đầu tiên trong đời mà Hùng Dũng trông thấy một bóng ma rõ rệt trước mặt mình. Bóng ma ẩn nấp trong phòng làm việc với trang phục y hệt như vợ chàng đang mặc. Hùng Dũng khô cả cuốn họng không nói được gì, nhưng tâm chàng tin chắc một điều rằng: “trong nhà này có ma”. Một oan hồn chua được siêu thoát, và ẩn hiện cho người trần gian thấy, và hãy tin vào một thế giới bên kia.
Sau lần thấy bóng ma đó, Hùng Dũng có cảm giác rất lạnh ở xương sống mỗi khi Hùng Dũng làm việc một mình trong phòng. Cả vợ chàng cũng tin rằng trong nhà có ma, qua những việc không sao giải thích được. Hai vợi chồng Hùng Dũng trở lại ngôi linh tự để bạch sư ông. Hai vợ chồng họ chỉ mong cầu được sự thanh tịnh bình tâm trong căn nhà ấy. Sư ông nghe qua lời trình bạch của vợ chồng Hùng Dũng và tiến hành một giải pháp “siêu sanh tịnh độ”. Ðức sư ông phái truyền một pháp sư đến tận nhà của gia chủ xem qua sự việc. Người pháp sư là đồ đệ của đức thầy đến nhà xem qua bốn phương tám hướng của ngôi dinh thự. Ông ta bày lễ cúng chư vị thần hoàng thổ trạch như xin phép để được giáng đồng cho hồn oan khuất bóng được giáng hạ ngôn từ qua bàn Cầu Cơ. Vị pháp sư đèn nhang chỉnh tề, khấn vái với mâm bánh trái cung kính vong linh trong vòng địa thổ xong, trên chiếc bàn Cơ có ba chân, mặt bàn ván gõ có vẽ đủ tất cả các vần A B C cùng một miếng ván có hình trái tim đặt ở giữa. Theo lời khấn niệm của vị pháp sư, miếng gỗ tự động di chuyển từ tâm điểm và lần đi một mình nó qua các vần chữ trên mặt bàn ghép lại thành một câu văn: “I live here, this is my house”. Miếng ván tự động ngừng lại. Vị pháp sự lại khấn, và muốn gia chủ đặt câu hỏi một cách thành tâm. Hai vợ chồng Hùng Dũng chưa bao giờ chứng kiến một sự việc lạ thường như vậy. Phản với khoa học, một miếng ván lại tự động di chuyển trên mặt bàn gỗ ráp thành văn tự, quả là một điều không tin được. Vị pháp sư trong chiếc áo tràng phan màu xám tro vẫn xếp bằng ngôi yên đó, tay bấm ấn như muốn đối thoại với vong linh đang nhập vào miếng ván Cơ. Hùng Dũng không nói ra lời, nhưng trong bụng chàng cất lên một câu hỏi: “Can you prove your spirit?”. Sau lời khấn trong tim của Hùng Dũng, miếng ván Cơ ráp thành câu như sau: “I live here, this is my house, you can find my picture right underneath the wine cellar”. Chỉ có vài câu vấn đáp với cõi âm và dương. Miếng ván Cơ không còn di chuyển nữa, miếng ván tự mình di về chữ “Thăng”. Hồn ma ra hiệu cho người trần biết rằng hồn họ đã xuất ra khỏi miếng ván Cơ. Một điều chứng minh cho vợ chồng Hùng Dũng rằng trong nhà có một oan hồn ngự trú. Oan hồn này chỉ báo cho chủ gia biết rằng vong linh vẫn còn phưởng phất quanh đây. Chứng minh điều ấy, vợ chồng Hùng Dũng cùng vị pháp sư xuống tận cái hầm chứa rượu trong nhà. Kể từ lúc vợ chồng Hùng Dũng dọn vào căn dinh thự này, hai người chưa có thì giờ dọn dẹp một căn hầm u ám đầy mạng nhện này. Ba người theo lời chỉ hướng của vong hồn đi xuống căn hầm dưới lòng đất của căn dinh thự. Hầm rượu thật tối âm, chỉ có một ánh đèn pin soi sáng. Trong hầm rượu ẩm thấp ấy, cả ba người soi đèn nhìn quanh, đó là những cái kệ được đóng bằng cây rất cũ kỹ. Cuối góc hầm, họ tìm thấy một cái tủ có vài ngăn kéo bị bụi bám theo thời gian. Trong ngăn kéo đầu tiên mà Hùng Dũng vừa kéo ra, cả sáu con mắt đều trông thấy một tấm ảnh của người đàn bà đứng tuổi đang bế con miệng cười tươi đứng ngay ở cổng nhà. Hai vợ chồng Hùng Dũng nhận ra người đàn bà này đã từng đẫy xe nôi từ lúc họ tìm đến căn dinh thự mà họ muốn tạo nên một tổ ấm.
Thế rồi, hư thật đã được an bày. Theo lời vị pháp sư, vợ chồng Hùng Dũng nên lập đàng cầu siêu cho vong hồn được siêu thoát. Pháp sư khấn niệm và vẽ dấu ấn chấn an tứ phía dưới căn hầm “wine cellar” một lần nữa. Bỗng dưng, cái đèn pha pin mà Hùng Dũng cầm trong tay lìm mờ và tắt đi. Trong bóng tối dưới căn hầm, cả ba người chứng kiến một việc thật lạ lùng, vì hồn ma muốn chứng minh cho tỏ tường một việc là “linh hồn ma còn ở tại chốn này”. Cây đèn pin đã tắt, nhưng trong hầm vẫn soi sáng một ánh sáng lạ lùng trên trần. Một ánh sáng hiện rõ một cái đầu của người với mái tóc dài, cái đầu sáng như ánh đèn soi, đi vòng quanh bốn góc hầm, rồi biến mất. Không ai tin được đó là sự thật ngoài ba người ấy trông tận mắt. Họ cùng nhau khấn vái, và trở lại lên nhà trên để tiến việc bày đàng “Siêu Linh Oan Tử”.
Hai vợ chồng Hùng Dũng đã thành tâm cung kính mời vị sư có đức độ cao siêu đến nhà để “Thỉnh Phật Tuyên Kinh, Cung Nghinh Chư Thánh”, rồi cùng vị pháp sư ếm chướng trong nhà. Ðức Thầy tụng niệm, và ban phép vào một cái lư nhang như yểm tâm cho linh hồn ngự nhập vào đó để có nơi có chốn như người trần gian có nhà có cửa. Ngài cho linh vong nhập vào bát nhang và cùng vị pháp sư đọc kinh siêu thoát. Ðức sư ông chứng chỉ một niềm tin cho vợ chồng Hùng Dũng thấy rằng vong hồn đã được siêu linh về với Phật Giới. Vợ chồng Hùng Dũng thắp ba nén nhang rồi cắm vào lư hương sạ nhiệt. Hương linh như muốn gửi gấm một lời gì đó, nên quả mâm bánh cúng vong mềm rụi nghe ra tiếng như có ai cắn ăn nghe dòn rụm. Và nén nhang tự phực đỏ than hồng…
Bát nhang đã được quý thầy đưa về chùa, ngự cùng trong một cung của các vong linh tử nạn hãy còn oan ức với những gì chưa kịp trăn trối ở cõi đời. Tấm ảnh cũng được đốt hoá đi như siêu thoát một linh hồn về với cõi Thập Phương Chư Phật.

Hồn ma dưới đại dương

Khi nào mà các đại dương vẫn còn những lợi gân nối liền các phần khác nhau của Đế quốc Anh thì chúng ta vẫn sẽ không tránh khỏi những chuyện hoang đường.
Vì linh hồn người ta tự để cho bị khuấy động bởi nước, cũng giống hệt như nước phải vâng theo mặt trăng và khi những con đường lớn của một đế quốc bị bao quanh bởi nỗi hỉêm nguy muôn thuở, cũng phong phú về những cảnh trí và âm thanh kỳ lạ, người ta phải có một tinh thần khá thâm hậu để giữ được thản nhiên trước những điều ác hại của chúng. Hiện nay nước Anh đang vươn ra rất xa bên ngoài chính quốc, khi mà ba ngàn dặm hải phận của mỗi mạn duyên hải làm thành cương giới mà nó đã đoạt được bởi cái búa, cái khuôn dệt và cái cuốc nhọn hơn là bởi những nghệ thuật của chiến tranh. Quả thật lịch sử đã đoán chắc với chúng ta rằng không một ông vua nào, không một đạo quân nào có thể cản đường của một người chỉ có hai đồng tiền trong két sắt nhưng biết rằng ở nơi nào y sẽ có thể biến hai đồng tiền thành ba đồng, và để hết trí thông minh vào việc đi tới nơi đã định. Và vì cương giới đã mở xa ra, trí thông minh của Anh Quốc cũng được nới rộng và tràn lan ra một cách đầy đủ trên khắp thế giới để cho tất cả mọi người thấy rằng những con đường của hải đảo có tính cách châu lục, giống hệt như những con đường của châu lục đều có tính cách hải đảo.
    Nhưng để tới được chỗ đó, người ta đã phải trả một cái giá, và cái giá này cứ tiếp tục tốn kém hơn. Cũng giống như con quái vật thời xưa phải nhận được dưới dạng cống phẩm hàng năm một người trai trẻ, với đế quốc của chúng ta cũng thế, hàng ngày chúng ta phải hy sinh cái tinh hoa của thế hệ thanh niên của chúng ta. Guồng máy thì bao la và dũng mãnh nhưng nhiên liệu duy nhất làm cho nó vận hành là sinh mạng của dân Anh. Đó là lý do tại sao khi ở trong những giáo đường cổ kính màu xám chúng ta nhìn thấy những danh tính xa lạ: những danh tính mà cả những người xây các bức tường này cũng không biết, vì chính ở Peshawar, ở Umbellah, ở Korti, ở Fort Pearson mà những chàng trai trẻ chết, mà chỉ để lại phía sau họ truyền thuyết và một tấm biển. Nếu bên trên mỗi cái xác người Anh có một đài kỷ niệm được dựng lwn thì người ta sẽ không cần vạch ra cương giới, vì một sợi dây thừng của những ngôi mộ sẽ chỉ rõ làn sóng của dân Anh và Celtes đã vờ tới nơi nào.
    Cả điều đó nữa, đồng thời với những khối nước nối liền chúng ta với thế giới, đã đóng góp vào những chuyện hoang đường mà chúng ta thấm nhuần. Khi mà bao nhiêu người đàn ông và đàn bà đã có ở phía bên kia đại dương những người mà họ yêu quý và những người này đang tiến lên dưới làn đạn của dân sơn cước hoặc trong những đầm lầy của bệnh sốt rét rừng, thì lúc đó tâm hồn đi vào sự giao cảm với tâm hồn, và những truyện ly kỳ nẩy sinh, những mộng mị, những sự linh cảm, những ảo tưởng trong đó một bà mẹ trông thấy con trai bà đang chết và bà ngất đi trong cơn tuyệt vọng, ngay cả trước khi cái tang của anh ta được loan báo cho bà. Mới gần đây khoa học đã chiếu cố tới vấn đề này và đã ban cho nó một cái nhãn hiệu, nhưng chúng ta đã biêt gì hơn nếu không phải là việc một linh hồn bị hành hạ và tới bước cũng đã có thể phóng qua mặt đất, vào một khoảng cách mươi lăm ngàn cây số, cái hình ảnh của tình cảnh đau buồn của y tới tận tâm trí của người thân cận nhất của y? Tôi không hề phủ nhận cái quyền năng đó, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải khôn ngoan trong những vấn đề như vậy, vì ít nhất đã có một lần tôi biết rằng những điều trong khuôn khổ các định luật tự nhiên có thể hoàn toàn nằm ngoài những vấn đề này.
    John Vansittart là hội viên thứ nhì của công ty Hudson et Vansittal, công ty xuất khẩu cà phê ở Ceylan ( Tích Lan). Ông vốn là người gốc Hà Lan, nhưng 100% Ăng-Lê trong lòng các phong độ. Đã nhiều năm tôi làm đại diện cho ông ở Luân Đôn. Khi ông tới Anh quốc để nghỉ ngơi ba tháng, ông nói với tôi để có những sự giới thiệu cho phép ông làm quen với đời sống ở thị thành và ở thôn quê. Ông đã rời khỏi các văn phòng của tôi với bảy bức thư trong túi áo. Trong một vài tuân, những bức thư ngắn từ nhiều nơi khác nhau gửi tới báo tin cho tôi biết là ông đã lấy được cảm tình của các bạn tôi. Rồi tôi được tin là ông đã đính hôn vơi Emily Lawson, thuộc ngành thứ của gia đình nhà Hereford Lawson, và gần như ngay sau đó họ đã thành hôn: sự tán tỉnh của một du khách chỉ có thể chóng vánh thôi, và cái ngay ông phải xuống tàu của công ty, một cái tàu buồn một ngàn tấn: đó sẽ là chuyến đi chơi tuần trăng mật của họ.
    Thời đó là thời cực kỳ thuận lợi cho các nhà trồng cà phê ở Ceylan, họ đã chưa từng biết cái mùa khủng khiếp mà chỉ trong vài tháng thôi, nhưng đã làm lụi bại tất cả một cộgn đồng này nhờ ở sự dũng cẩm và kiên trì, sẽ lại dành được một thắng lợi thứ hai: quả thực những cánh đồng trà ở Tích Lan là một đại công trình của lòng dũng cảm của dân Anh, giống hệt như con sư tử ở Waterloo. Nhưng trong năm 1872 chưa có một đám mây nào đe doạ ở chân trời. Những hy vọng của các nhà trồng tỉa thật tràn trề, Vansittart trở lại Luân Đôn cùng với cô vợ trẻ đẹp của ông. Ông giới thiệu cô với tôi, chúng tôi cùng ăn bữa tối với nhau, và cuối cùng thì ông đồng ý rằng, vì các công việc củng đòi hỏi sự có mặt của tôi ở Tích Lan, tôi sẽ là bạn đồng hành của họ trên tau Eastern Star, mà sự nhổ neo rời bến đã được định trước vào ngay thứ hai sắp tới.
    Tôi gặp lại ông vào buổi tối ngày chủ nhật. Ông đi vào trong nhà tôi với một vẻ băn khoăng và bực bội. Khi tôi bắt tay ông, tôi nhận thấy bàn tay ông nóng và khô.
    - Ông Atkinson ạ, ông nói với tôi, tôi muốn ông bảo người nhà pha cho tôi một chút nước chanh và nước lạnh. Nói theo nghĩa đen, tôi đang chết khát đây, và tôi càng uống bao nhiêu thì tôi càng muốn uống nữa.
    Tôi bấm chuông và gọi lấy một bình nước và những cái cốc.
    - Ông đang bị sốt nóng lạnh, toi nói với ông, ông có vẻ đang khó ở đó.
    - Không, tôi không cảm thấy khoẻ mạnh lắm. Tôi bị đau phong thấp ở lưng, và tôi ăn không ngon. Chính cài thành phố Luân Đôn chết tiệt này làm tôi nghẹt thở. Tôi không quen hít thở cái không khí mà bốn triệu buồng phổi cùng khuấy trộn lên cùng một lúc.
    Ông vung vẩy hai bàn tay co quắp trước mặt ông: thật sự ông đã cho người ta một ấn tượng của sự ngột ngạt.
    - Một khi ông ở trên mặt biển, ông sẽ cảm thấy khoẻ khoắn ngay.
    - Đúng. Về điều đó thì tôi đồng ý với ông, Đó là việc cần thiết của tôi. Tôi không cần tới một vị y sĩ khác. Nếu ngày mai tôi không xuống tàu thì tôi sẽ phát ốm.....
    Ông uống một hơi hết cốc nước chanh và ông xoa chỗ sống lưng bằng hai bàn tay ông.
    - Người ta nói rằng điều đó sẽ tốt cho tôi, ông nói tiếp trong khi nhìn tôi với một con mắt rầu rỉ. Bây giờ tôi cần có sự giúp đỡ của ông, ông Atkinson ạ, vì tôi đang ở trong một hoàn cảnh tế nhị.
    - Hoàn cảnh thế nào?
    - Đây này, bà mẹ vợ tôi bị ngã bệnh và bà ấy đã đánh điện gọi vợ tôi tới bên giường bệnh của bà ấy. Tôi đã không thể đi theo vợ tôi (ông biết rõ hơn ai hết là tôi đã bị cầm chân lại ở đây ) và vợ tôi đành phải đi một mình. Bây giờ tôi lại vừa nhận được một bức điện khác nói là ngày mai vợ tôi không thể tới được, nhưng nàng sẽ bắt kịp con tàu ở Falmouth vào ngày thứ tư. Ông biết đó, chúng tôi sẽ đạu lại ở đó: nhưng Atkinson ạ, tôi thấy thật là khó cho người ta đòi hỏi một người phải tin vào sự huyền bí, và người ta sẽ nguyền rủa, nếu y không thể tin vào điều đó, người ta sẽ nguyền rủa y, ông hãy hiểu tôi đi!
    Ông cúi xuống phía trước và khịt mũi làm như thể ông sắp khóc oà lên.
    Lúc đó tôi nghĩ tới việc người ta đã nói rất nhiều với tôi về những tập tục ở hải đảo và về cách thức người ta uống rượu không pha ở đó. Chắc hẳn rượu đã là nguyên nhân của những lời nói khó hiểu này và của những bàn tay đang lên cơn sốt này! Tôi cảm thấy một sự lo sợ mạnh mẽ khi trông thấy một người trai trẻ cao quý như vậy nằm trong tay một con quỉ ghê tởm nhất trong số tất cả những con gái.
    - Ông phải đi nằm nghỉ! Tôi nói một cách nghiêm nghị.
    Ông dụi mắt như thể ông tìm cách tự làm cho mình tỉnh lại, và ông nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.
    - Tôi sẽ đi tới đó, ông nói với tôi một cách bình thản, lúc nãy tôi cảm thấy hơi choáng váng, nhưng bây giờ tôi đã hồi phục rôi. Này, tôi đang nói về về việc gì thế? À, dĩ nhiên là về vợ tôi rồi! Nàng sẽ xuống tàu ở Falmouth. Tôi tin rằng sức khoẻ của tôi tuỳ thuộc vào sự đi đường biển. Tôi cần có chút ít không khí trong lành trong phổi tôi để tôi có thể hoàn toàn bình phục. Do đó tôi xin ông hãy làm cho một việc với tư cách bạn bè, ông sẽ đí tới Falmuoth bằng xe lửa, phòng trường hợp mà chúng tôi tới trẻ, và lúc đó ông sẽ trông nom cho vợ tôi. Ông hãy tới khách sạn Royal; tôi sẽ đánh điện cho nàng là ông trú chân ở đó. Em gái của nàng sẽ đi theo nàng tới tận đó, như thế là mọi việc sẽ tốt đẹp.
    - Rất vui lòng, tôi trả lời. Thật sự tôi không đòi hỏi gì hơn là được đi tới Falmuoth bằng xe lửa, vì từ đây tới Colombo chúng ta sẽ có nhiều thời gian thưởng thức biển cả. Tôi cũng nghĩ rằng ông có một nhu vầu khẩn thiết về sự thay đổi không khí. Nếu ở địa vị ông tôi sẽ đi nằm nghỉ ngay tức thì.
    - Phải. Đêm hôm nay tôi sẽ ngủ trên tàu. Ông thấy đó một thứ sương mù còn lởn vởn trước mắt ông.
    -....Mấy đêm nay tôi không ngủ được nhiều, tôi đã gặp mâu thuẫn với các nhà thần học....nghĩa là.....
    Trong một sự cố gắng tuyệt vọng, ông kêu lên:
    -....Bởi những sự hoài nghi có tính cách thần học...Xì! Tôi tự hỏi tại sao đấng tối cao toàn năng lại tạo ra chúng ta, tại sao. Ngài lại làm cho chúng ta ngu độn và gài những sự đau đớn lặt vặt vào sống lưng của chúng ta. Có lẽ là tối nay tôi sẽ khá hơn!
    Ông đứng dậy và bám thấy cái lưng ghế của ông.
    - Ông Vansittart! Xin ông hãy nghe tôi! Tôi nói với sự nghiêm trọng. Tối nay tôi sẽ mời ông ở đây với tôi, ông không ở trong tình trạng để đi ra ngoài được. Ông không đi ngay ngắn được. Ông đã uống những thứ pha trộn của rượu...
    - Rượu hả?
    Ông nhìn thằng vào mắt tôi với một cái nhìn ngớ ngẩn.
    - Thường nhật thì ông chịu đựng khá hơn khi uống rượu mà.
    - Ông Ankinson này, tôi thề với ông là đã từ hai ngày nay tôi không uống một cốc rượu, tôi không biết là tôi đã uống cái gì. Tôi giả thiết rằng ông nghĩ đó là hiệu ứng của rượu....
    Ông nắm lấy bàn tay tôi và đặt nó lên trán ông.
    - Lạy chúa tôi! Tôi kêu phải lên.
    Ông có làn da mỏng như một dải nhung, dưới lớp da tôi cảm thấy như một lớp chi chít những miêng chỉ lụn vụn.
    - Ông chớ lo sợ, ông nói trong lúc cười mỉm. Tôi đã mắc bệnh lở mụn nước rất tệ.
    - Nhưng chuyện đó không dính líu gì tới bệnh lở mụn nước mà !
    - Không, đó là Luân Đôn. Đó là việc thở hít cái không khí tệ hại đó. Ngày mai tôi sẽ mạnh khoẻ hơn nhiều. Trên tàu có một y sĩ, thế là tôi sẽ được săn sóc chu đáo. Bây giờ tôi sẽ đi đây.
    - Không, tôi nói với ông trong khi bắt ông phải ngồi xuống. Việc đó sẽ là đưa sự đùa cợt đi quá xa đấy. Ông sẽ không nhúc nhích khỏi nơi này trước khi gặp một vị y sĩ. Hãy ở yên chỗ ông đang ngồi.
    Tôi cầm lấy cái mũ và vội vã đi tới nhà một vị y sĩ ở ngay gần nhà tôi. Tôi đưa ông ấy về nhà tôi ngay lập tức, nhưng phòng khách của tôi trống không và Vansittart đã đi khỏi. Tôi bấm chuông, anh đầy tớ báo với tôi rằng vị quý khách đã sai gọi một cỗ xe. Ông ấy bảo người đánh xe đưa ông ấy đến bến tàu.
    - Vị quý khách có vẻ ốm yếu không? Tôi hỏi.
    - Ốm yếu à? Anh đầy tớ mỉm cười trả lời. Thưa ông không, ông ấy hát ầm ĩ!
    Sự bào tin này đã không làm tôi yên tâm chút nào, nhưng tôi nghĩ rằng ông đi tới tàu Eastem Star, và có một y sĩ ở trên tàu, tôi không thể làm được gì nữa cho ông. Tuy nhiên, khi tôi nhớ tới sự khác nước của ông, nhớ tới hai bầnty nóng bỏng của ông, con mắt nặng chĩu của ông, những lời nói vô ý nghĩa của ông, và cuối cùng là cái trán lở lói bệnh cùi của ông, thì tôi đã mang theo lên giường nằm của tôi một ký ức khó chịu về người khách của tôi và sự tới thăm của ông ấy.
    Sáng hôm sau, vào lúc mười một giờ, tôi đi tới bến tàu, nhưng tàu Eastern Star đã bắt đầu chạy xuôi dòng sông và đã fần tới Gravesend. Tôi đi với Gravesend bằng xe lửa, nhưng khi tôi tới nơi thì chỉ còn trông thấy các cột buồm của nó ở một khoảng cách khá xa, được mở đường phía trước bởi một lùm khói của một cái tàu kéo. Thế là tôi không có tin tức nào của ông bạn tôi nữa trước khi tới Falmuoth. Khi tôi trở về văn phòng của tôi, một bức điện tín đã đợi tôi. Bà Vansittart đã tới Falmuoth; buổi tối ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở khách sạn Royal, tại đó chúng tôi phải đợi tàu Eastern Star. Mười ngày đã trôi qua, chúng tôi không nhận được tin tức gì của con tàu. 
Hon ma duoi dai duong

    Tôi sẽ không dễ dàng quên được mười ngày đó! Khi tàu Eastern Star rời khoti sông Tamise, một cơn bão lớn phát khởi; nó thổi trong gần cả một tuần lễ không ngừng nghĩ chút nào. Trên bờ biển miền nam, chưa bao giờ người ta thấy một trận bảo dài như thế và cuồng nộ như thế. Từ các cửa sổ khách sạn của chúng tôi, mặt biển hình như bị bao trùm trong sương mù. Gió đè một cách quá nặng nề lên những đợt sóng khiến cho mặt biển không thể vùng lên được: ngọn của từng đợt sóng đã bị ngắt đi ngay tức thì. Những đám mây, gió, mặt biển đều ùn ùn kéo về hướng tây. Ở giữa những thế lực hung hăng này, tôi chờ đợi hết ngày này qua ngày khác với sự bầu bạn duy nhất của một người đàn bà xanh xao và trầm lặng, mà cặp mắt phản ảnh sự kinh hoàng; từ sáng tới chiều, nàng cứ đứng dán mắt vào cửa kính, đăm đăm nhìn vào tấm xịt qua đó một con tàu có thể hiện ra. Nàng không nói gì cả, nhưng nét mặt nàng là một khúc bi ca dài dặc.
    Sang tới ngày thứ năm tôi hỏi ý kiến một thủy thủ già. Ý tôi muốn được ngồi một mình với ông ấy, nhưng nàng đã trông thấy tôi mở lời với ông ấy, và nàng tới ngay tức thì, miệng hé mở và đôi mắt khẩn cầu.
    - Khởi hành từ Luân Đôn đã bảy ngày rồi à? Ông ấy nói. Vậy là năm ngày trong giông bão. Này, biển Manche đã bị quét sạch bởi cơn gió này! Có ba giả thuyết, trận bão có thể bắt nó phải tìm nơi trú ẩn trong một hải cảng của Pháp. Điều này có thể là đúng.
    - Không phải thế đâu! Ông ấy biết rằng chúng tôi đang ở đây. Lẽ ra ông ấy phải đánh điện cho chúng tôi.
    - À phải! Vậy thì có thể là nó đã chạy ra khơiđể tránh bão, nếu đúng vậy thì lúc này chắc nó không ở xa Madere. Thưa bà, điều đó hoàn toàn có thể xảy ra; bà có thể tin lời tôi nói !
    - Và giả thuyết thứ ba?
    - Tôi có nói với bà về một giả thuyết thứ ba à? Không, tôi nghĩ chỉ có hai thôi. Tôi không tin là tôi đã nói tới một giả thuyết thứ ba. Con tàu của bà đang ở một nơi nào đó ở giữa Đại Tây Dương, và chả mấy chốc bà sẽ có tin tức của nó, vì thời tiết săp thay đổi. Thưa bà, bà chớ lo lắng. Hãy đợi tới ngày mai, ngay từ buổi sáng bà sẽ có một bầu trời xanh, đẹp.
    Người thủy thủ già đã tiên đoán đúng: ngày hôm sau trời quang đãng ngoại trừ một đám mây thấp bay ở phía tây, và đó là mảnh cuối cùng của cơn cuồng nộ của trận bão tố. Dù trời đã quang đãng chúng tôi cũng vẫn không có một tin tức nào về chiếc tàu thủy. Ba ngày bực bội, lo âu nữa đã trôi qua, rồi một thủy thủ tới trình diện ở khách sạn với một bức thư, tôi thốt lên một tiếng kêu vui mừng. Bức thư tới từ vị thuyền trưởng của tàu Eastern Star. Khi đọc qua mấy dòng đầu tiên, tôi đã muốn giấu nhẹm là thư đi, nhưng nàng đã giật lấy nó từ tay tôi.
    - Tôi đã đọc đoạn đầu, nàng nói với một giọng bình thản. Vậy thì tôi có thể đọc chỗ tiếp theo.
    Lá thư viết như sau:
    ” Kính thư ông, ông Vansittart đang ở trên tàu với bệnh đậu mùa, và chúng tôi đã bị đẩy ra quá xa mũi đất của chúng ta nên chúng tôi không biết phải làm sao: ông ấy đã phát cuồng và ông ấy không còn khả năng để ra lệnh cho chúng tôi. Theo những sự tính toán phỏng chừng của tôi thì chúng tôi chỉ còn cách Fanchal chừng bốn trăm hai mươi cây số thôi. Tôi cũng giả thiết là nên đi tới đó, đưa ông Vansittart vào bệnh viện, và đợi ông tới ở trong vịnh. Người ta nói với tôi là trong vài ngày nữa một tàu buồm sẽ từ Falmuoth đi tới Fanchal. Lá thư này sẽ được mang tới ông bằng sự môi giới của thuyền nhỏ Marian ở Falmuoth, phải trả viên thuyền trưởng của nó năm bảng. Kính chào ông. Jno Hines. ”
    Nàng thật là tuyệt diệu, cô thiếu nữ vừa mới rời khỏi đại học này! Cũng trầm tĩnh và cương nghị như một bậc nam nhi vậy. Nàng không nói gì cả. Nàng mím chặt môi và đội mũ lên đầu.
    - Cô đi ra ngoài à? Tôi hỏi.
    - Vâng.
    - Tôi có thể giúp gì cho cô không?
    - Không, tôi đến nhà vị y sĩ.
    - Sao?
    - Phải. Để biết cách người ta điều trị bệnh đậu mùa.
    Nàng loay hoay bận rộn súôt cả buổi tối. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi xuống tàu đi Madere, trên chiếc tàu Róe ò Shảon. Gió biển thổi mười nút một giờ. Trong năm ngày chúng tôi chạy với tốc độ đều đặn, và chúng tôi đã tới nơi không xa hải đảo. Sang ngày thứ sáu gió nổi lên đột ngột, chúng tôi lâm vào tình trạng không nhúc nhích được như đi trên dầu nhớt.
    Lúc mười giờ tối, Emily Vansittart và tôi cùng đứng tựa vào bao lớn bên phải của mạn cuối tàu; mặt trăng sáng rực đằng sau chúng tôi và chiếu xuống chân chúng tôi bóng đen của con tàu và bóng hai cái đầu của chúng tôi trên mặt nước lóng lánh như tấm gương. Từ chỗ bóng tối một con đường của ánh trăng trải dài ta và vừa đi xa, vừa tan rộng cho mãi tới chân trời hiu quạnh. Chúng tôi nói chuyện trong khi cúi thấp đầu xuống, chúng tôi nói dông dài về sự yên tĩnh, về cơ may của một cơn gió thuận lợi, về trạng thái của bầu trời, thì bỗng nhiên có một tiếng bõm trên mặt nước, như thể một con cá hồi vừa nhảy lên, và kìa, dưới ánh sáng trăng vằng vặc John Vansittart nhô lên từ dưới mặt biển và ngẩng đầu lên về phía chúng tôi.
    Tôi chưa bao giờ thấy một vật gì rõ rệt hơn thế. Ánh trăng soi sáng ông ấy rõ mồn một, ông ấy ở cách xa chúng tôi tầm độ ba tầm chèo. Ông ấy có bộ mặt phồng lên lớn hơn là lần gặp mặt cuối cùng của chúng tôi, da ông có nhiều chỗ lốm đốm những vẫy đen; mặt và miệng ông mở lớn ra như thể một người vủa gặp một sự kinh ngạc lớn lao. Từ hai vai của ông, một chất trắng đục chảy xuống thành những dãi dài; một bàn tay của ông giơ lên gần tai, bàn tay kia thì gặp lại để ngang ngực ông. Tôi trông thấy ông vọt lên khỏi mặt nước, và trên mặt phẳng yên tĩnh của đại dương, những gợn sóng vẽ thành các vòng tròn cho mãi tới hông tàu. Rồi ông lại chìm xuống, và tôi nghe thấy một tiếng rập gẫy, một tiếng xé rách, như thể trong một đêm băng giá một bó củi khô nổ lép bép trong đống lửa bập bùng. Khi tôi nhìn lại tôi không còn trông thấy một chút dấu vết nào của ông đã xuất hiện. Tôi không thể nói là tôi đã đứng ở đó bao lâu cúi khom người trên các đầu ngón chân, một tay vịn chặt lấy cái lan can và tay kia đỡ lấy người đàn bà bất tỉnh. Tôi đã là một kẻ trái ngược hẳn với người hay nhạy cảm, lần này thì ít nhất tôi đạp chân lên boong tàu để biết chắc tôi vẫn còn làm chủ được các cảm giác của chính tôi, và đây không phải là sự sáng tạo điên khùng của một bộ óc hỗn loạn. Emily Vansittart run lẩy bẩy, mở mắt ra, nàng đứng dậy, hai tay tì vào cái lan can, nhìn ra mặt biển long lanh dưới ánh trăng; mặt nàng đã già đi mười năm trong một đêm hè.
    - Ông có nhìn thấy ông ấy không? Nàng thì thào nói.
    - Tôi đã nhìn thấy một vật gì.
    - Đó là ông ấy! Đó là John! Ông ấy đã chết!....
    Tôi ấp úng nói một vài lời có tính cách hoài nghi.
    -...Chắc chắn là ông ấy vừa mới chết, nàng nói nhỏ. Ở bệnh viện Madère. Tôi đã đọc qua những truyện vào loại đó. Các yd nghĩ của ông ấy đều nghĩ tới tôi. Thị quan của ông ấy đã tới với tôi. Ôi John, người yêu quý của tôi, người yêu quý đã mất đi mãi mãi của tôi !
    Nàng oà lên khóc nức nở: tôi đưa nàng về phòng của nàng và để nàng ở đó với nỗi lo buồn của nàng. Một cơn gió nhỏ bắt đầu thổi trong lúc ban đêm, và buổi tối hôm sau chúng tôi bỏ neo trong vịnh Fanchal. Tàu Eastern Star đang đậu gần đó, lá cờ kiểm dịch được treo cao trên cột buồm lớn và cờ hiệu của nó để rũ xuống.
    - Ông trông kìa! Bà Vansittart nói với tôi.
    Cặp mắt nàng khô ráo, nàng biết rằng không một giọt lệ nào trả lại được người chồng cho nàng. Trong lúc ban đêm chúng tôi nhận được giấy phép cho lên tàu Eastern Star. Viên thuyền trưởng, ông Hines, đợi chúng tôi trên boong, sẹ lo buồn và bối rối đã hằn lên trên bộ mặt da đồng của ông, và ông tìm những từ để loan báo hung tin: nàng ngắt lời ông.
    - Tôi biết rằng chồng tôi đã chết, nàng nói, ông ấy đã chết tối hôm qua, vào lúc mười giờ, ở bệnh viện Madère, có phải vậy không?
    Người thủy thủ nhìn nàng, sững sờ.
    - Khồn, thưa bà. Ông ấy chết tám ngày rồi, ở trên biển và chúng tôi đã buột lòng phải thủy táng ông ấy ở đó, vì chúng tôi thấy mình đang ở một khu vực yên tĩnh và chúng tôi đã không biết khi nào thì chúng tôi sẽ tới bờ.
    Đó là những sự kiện chính yếu liên quan tới cái chết của John Vansittart, cũng như về sự xuất hiện của ông ấy tại một nơi nào đó vào khoảng độ 35 bắc vĩ - tuyến và độ 15 tây kính tuyến. Một hồn mà hiện hình rõ rệt hơn thật ít khi xảy ra, do đó nó đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận, của nhiều bài viết. Nó đã được xác nhận bởi giới bác học và nó đã làm dầy thêm tập hồ sơ mới được mở ra gần đây về sự thần giao cách cảm. Về phần tôi, tôi chủ trương là sự thần giao cách cảm không có gì để nghi ngờ, nhưng tôi muốn rút trường hợp này ra khỏi tập hồ sơ và tôi muốn nói rằng chúng tôi đã không trông thấy sự xuất hiện của hồn ma John Vansittart, mà đúng là John Vansittart bằng xương bằng thịt, vọt lên từ đáy sâu của Đại Tây Dương dưới ánh trăng. Tôi luôn luôn tin rằng một sự ngẫu nhiên phi thường (Một trong các sự ngẫu nhiên rất ít có khả năng xảy ra này, tuy nhiên lại vẫn thường xảy ra ) đã làm cho chúng tôi đứng bất động bên trên chính ngay cái chỗ mà người đàn ông đó đã bị chôn vùi trên biển một tuần lễ trước. Về phần còn lại, vị y sĩ đã nói với tôi là quả tạ bằng chì không được cột chặt, và bảy ngày đã mang tới cho cái xác chết vài sự thay đổi nào đó có thể làm cho nó nổi lên mặt nước. Quả tạ đã làm nó chìm sâu xuống đấy biển. Nếu quả tạ tách rời ra xác chết có thể lại chồi lên mặt nước với sự đột ngột mà chúng tôi đã chứng kiến. Đó là lời giải thích của vị y sĩ. Tới chỗ muốn biết rõ ràng hơn nữa, tôi coi đó là phận sự của tôi, và nếu nhắc lại với bạn về cái tiếng động khô khan của sự rập gẫy, của sự xé rách, cũng như sự xao động trong nước biển. Những con cá mập kiếm ăn trên mặt nước, và chúng đông lúc nhúc trong miền này. 

Hãy theo em

Đã mấy chục năm kể từ khi Lữ Khúc nằm xuống, tôi vẫn mơ hồ không hiểu, không minh bạch câu chuyện về "một cái chết đã được báo trước" nàỵ.
Có hay không những chuyện giao cảm giữa hai cõi âm dương? Có hay không những câu chuyện ma mà người đời thường kể cho nhau nghẻ Trong nhiều năm nằm Ấp trên miền Thượng Du Bắc VN, tôi đã có phen lạc trong rừng cả một buổi, đã cầu mong gặp được một hiện tượng bất bình thường. Nhưng chưa bao giờ gặp mạ Vào khoảng năm 1958, khi phụ trách một lớp bổ túc nghiệp vụ, tôi đã thấy cả chục nhân viên nằm chung trên một bộ ván, dưới cái nóng nung người của mái tôn. Khi được hỏi lý do, anh em đáp, vì nằm trên những giường vải cá nhân, cứ đêm đêm lại mơ giao hợp với ma nên phải nằm sát bên nhau cho đỡ bị kiệt sức! Tôi vốn không tin chuyện ma quỷ hiện hình, nên đã thử nằm ngủ một đêm trên giường vảị Nhưng hoàn toàn không có chuyện gì cả!
Thế mà từ khi Lữ Khúc bắt tay tôi và ngỏ lời vĩnh biệt... cho đến khi nghe tin Lữ Khúc nằm xuống, tôi đâm hoang mang! Phải chăng quả có một hồn ma bắt Lữ Khúc đi theo, do một nghiệp căn nào đó?
Trong cuốn nhật ký mà Lữ Khúc còn để lại, có ghi rõ ràng câu chuyện này, tôi xin phỏng thuật lại dưới đây:


- o O o -
Hay theo em
Tin Lữ Khúc nằm xuống vì tai nạn xe hơi khiến cả Lán bàng hoàng! Tuần trước, chúng tôi mới nhận được thư anh gửi qua đường bưu điện. Bức thư vỏn vẹn có mấy dòng chữ:
Các bạn thân mến,
Trong tháng này, mình "đi", chưa biết bằng cách nàọ Các bạn ở lại mạnh giỏị Câu chuyện mình đã kể trong lán là hoàn toàn có thật. Mình đã bắt tay vĩnh biệt từng bạn. Chẳng ai tin là mình sắp nằm xuống! Nhưng rồi các bạn sẽ nhận được tin nàỵ
Hãy cầu nguyện cho hương linh mình chóng siêu thoát.
Lữ Khúc.
Lán mà chúng tôi tạm trú trong thời gian ở Phước Long là một căn nhà tranh, cột kèo bằng tre già, lợp lá gồị Hồi đó, chúng tôi đang cùng nhau đi thực tập trong một chương trình Nông Lâm. Cũng may, ai nấy đều đã trải qua cuộc sống hướng đạo sinh, nên dù ở trong rừng và chỉ với 7 ngày lương khô, chúng tôi cũng đã thực hiện được những bài học về mưu sinh, thoát hiểm, nên đã sống vui mấy tháng trên rừng. Có điều từ ngày Lữ Khúc. xin rút tên khỏi khóa học, khăn gói trở lại miền xuôi, lán chúng tôi không còn ồn ào, vui vẻ như trước vì hàng ngày vắng tiếng hát Lữ Khúc. Chiếc mandoline qua hai bàn tay phù thủy của Lữ Khúc luôn phát ra những âm điệu réo rắt, hòa với giọng ca trầm ấm của anh.
Đột nhiên tháng trước đây, Lữ Khúc hoàn toàn đổi khác. Nhiều đêm, anh ra đứng ngoài lán, nhìn lên không hồi lâụ Khi đã quá khuya, chúng tôi phải ra kêu anh vô nghỉ. Hỏi, có tâm sự gì chăng. Anh lắc đầu: "Không có gì!"
Câu chuyện mà Lữ Khúc nói đã kể trong lán là có thật, đầu đuôi như sau:

- o O o -
Hôm ấy trời mưa lớn. Sài Gòn thường có những trận mưa bất ngờ, ào ào trong năm ba phút rồi trời lại nắng ráọ Giữa một trận mưa như thế, Lữ Khúc đang lái chiếc xe trên đường từ Hạnh Thông Tây về Thị Nghè vào khoảng 7 giờ chiềụ Thốt nhiên phản ứng tự nhiên khiến anh đạp thắng dừng xe lại, vì bên lề đường có một bóng đen đang giơ tay vẫỵ Lữ Khúc hạ kiếng xe bên phải xuống, một giọng thiếu nữ cất lên:
- Xin ông vui lòng cho "quá giang" một lát!
Khúc với tay mở cửa xe, chờ cô gái ngồi bên cạnh
- Cô đóng cửa xe giùm. Xin cho biết cô muốn tới đâủ
Cô gái vui vẻ:
- Cảm ơn ông nhiềụ Xin ông cho tới khu nghĩa trang trước đây thôị
Khi xe gần tới nơi, cô gái chỉ tay:
- Nhà má em trong hẻm này, số 77Ạ Khi nào có việc ghé qua, xin mời ông quá bộ vô uống ly trà!
Lữ Khúc dừng xe trước một ngõ hẹp, có hai hàng cây so đũa:
- Cô về!
- Cảm ơn ông!
- Không có gì, cô...
- Em tên Di!
- Cô Di về.
- Chào ông!
Tối hôm đó về đến nhà trong khu cư xá Ngân Hàng bên Thị Nghè, Lữ Khúc mải lo làm một số công việc dịch vụ, hầu như không còn nhớ lại chuyện cô gái tên Di xin quá giang xe nữa! Nhưng sau khi đi nằm, tự nhiên chợt thấy một bóng người xuất hiện ngoài khung cửa sổ. Lữ Khúc mở cửa và nhận ngay ra người vừa tới:
- Cô Di, khuya rồi, có việc gì mà qua đây vậỷ
Di mỉm cười:
- Em không ngủ được, nên đến rủ ông ra ngoài ngắm trăng.
Như có một động lực vô hình thúc đẩy, Lữ Khúc theo Di ra vườn câỵ Di kéo tay Khúc, dìu anh ngồi xuống chiếc ghế dài - do hội Hoàn Cầu Khải Tượng tặng thành phố Sài Gòn -, ngón tay nàng chỉ lên cao:
- Ông xem, trăng đẹp biết chừng nào!
Lữ Khúc thấy trong người lâng lâng như say rượụ Ánh trăng không đủ sáng cho anh nhìn rõ khuôn mặt Di, nhưng đã nhận ra cặp mắt nàng long lanh như có ngấn lệ:
- Hình như cô không được vuỉ
Di gật đầu:
- Em sắp phải đi khỏi khu vực này! E rằng sẽ không còn được gặp ông nữa!
Lữ Khúc ngạc nhiên:
- Vì saỏ
- Em có nhiệm vụ phải kiếm một bạn đồng hành đến một nơi đã được chỉ định, để hoàn thành một sự ủy thác. Nhưng đã mấy năm rồi, không ai chịu làm bạn với em. Hoặc có người thương cảm em, muốn đi theo em, nhưng em lại không đành chấp nhận, bởi ảnh còn có gia đình... Nay thì thời hạn của em chỉ còn bốn mươi chín ngày nữa, mà em hầu như không còn hy vọng tìm được người cùng đị Hậu quả là em phải đi khỏi khu vực này, vì thời gian dành cho em có hạn.. 
Hay theo em

Lữ Khúc tỏ vẻ không hiểu:
- Sao Di lại cần phải có người đi theỏ
Di ngần ngại:
- Tại em đã vì tình thương mà không quyến rũ một người mà em có nhiệm vụ bắt đi theọ Cũng do người ấy chưa đến số phải ra đi..., nên em phải chịu một hình phạt, chưa biết đến bao giờ mới được đầu thaị.!
- Không có người đi theo, Di phải rời bỏ khu vực này, rồi Di sẽ ra saỏ
Di lắc đầu:
- Em cũng không biết ra sao nữạ Nhưng chuyện phúc họa khôn lường, mà đối với em thì may nhiều, rủi ít!
Lữ Khúc khảng khái:
- Tôi sẽ đi với em!
- Anh còn công danh, sự nghiệp..
- Tôi không có gia đình mà công danh, sự nghiệp thì còn xa vời quá. Nếu Di muốn, hãy cho tôi theọ Tôi chấp nhận mọi rủi may, miễn là giúp Di được giải thoát!
Di cúi đầu:
- Để em coi em có duyên với ông không đã...
Có tiếng gà gáy sáng, Di hốt hoảng:
- Em phải về! Nhớ khi nào có dịp, ông ghé thăm em!
- Tôi hứa với Dị
Một buổi chiều sau đó, Lữ Khúc lái xe qua con đường cũ. Anh đậu xe bên lề đường rồi men theo ngõ hẹp vô số nhà mà Di đã chọ Một bà già mở cánh cửa bước ra:
- Xin lỗi, ông Hai muốn kiếm aỉ
Lữ Khúc vui vẻ:
- Dạ! Thưa bà bác, xin cho cháu gặp cô Dị
- Ông Hai theo tôi!
Lữ Khúc lặng lẽ bước theo bà già. Đến trước một ngôi mộ cỏ mọc xanh um. Bà già chỉ tay vô thanh gỗ có viết tên người quá cố:
- Cháu đó!
Khúc thẫn thờ nhìn dòng chữ:
- Hồ Thị Di (1940-1962)
Khi ngoảnh lại, Khúc thấy bà già đang trở lại nhà. Anh chắp tay, cúi đầu trước mộ:
- Di! Thì ra Di là người cõi khác. Nhưng dù sao thì chúng ta cũng có duyên với nhaụ Hiện nay, anh không còn gì ràng buộc.. Tôi tự nguyện sẽ là người bạn đồng hành của Di...
Khúc mơ hồ nghe có tiếng Di vang lên trong ngọn gió mát lạnh từ đâu tới:
- Hãy theo em! 

Lang thang đêm khuya

Nó là thằng bé ăn mày tội nghiệp. Hơn thế, lại mù. Chiếc quần bẩn khó xác định màu rách bươm cả hai ống cho thấy không chỉ người mà lũ chó cũng chẳng thích nó.Hai ống tay áo đen bóng vì luôn được dùng làm khăn lau mũi.
Ðầu nó đội chiếc mũ cói méo mó hơi hất về phía sau, để lộ khuôn mặt đói ăn gầy đét, xạm nắng, và nhất là hai hố mắt trắng dã càng làm tăng thêm vẻ thảm hại đáng sợ. Có thể nó chủ ý phô ra thế để người ta thương hại mà cho chút gì chăng? Vì mù, nó phải chống gậy, chiếc gậy trúc già bằng ngón tay cái, trơn nhẵn và cũng gầy đanh như nó. Sau khi thận trọng gõ hai lần xuống đất, nó mới đi một bước. Nó lặng lẽ đi giữa trời nắng chang chang, chiếc bị, cũng bằng cói, đeo sát nách, và hình như còn lép kẹp hơn bụng nó.
Không ai biết nó từ đâu tới. Thứ nhất vì đây là lần đầu tiên nó xuất hiện ở làng Thượng. Thứ hai, đơn giản vì những loại như nó không đáng được người ta quan tâm. Mà rồi lúc ấy đang giữa trưa nắng gắt chẳng có ai gần đấy ngoài một thằng bé khác trạc tuổi nó, cũng nhếch nhác, nhưng vì không ăn mày nên to khỏe hơn và cũng lành lặn hơn. Thằng này đang chổng đít cố búng viên bi thủy tinh vào một lỗ nhỏ trước mặt dưới bóng cây đa cụt đầu làng. Nó đang cáu vì búng mãi không vào đúng lỗ. Ðã thế, viên bi bị búng mạnh quá lăn đi đâu mất. Nó thất vọng định đứng dậy bỏ về nhà ăn trưa thì bất chợt nhìn thấy thằng ăn mày khốn khổ. Nó thấy có cái gì đấy vừa buồn cười vừa khó chịu ở vẻ ngoài và cách dò đường hai cộc một bước của thằng kia. Ðôi mắt trắng dã làm nó, vốn bực mình vì mất viên bi, càng thêm khó chịu. Cứ như viên bi của nó đã bay vào nằm gọn trong hố mắt thằng kia. Một ý nghĩ chợt lóe lên. Nhẹ và rón rén như con mèo săn chuột, nó bước lại gần thằng ăn mày, bất chợt giật lấy chiếc gậy trúc rồi chạy nhanh về phía gốc đa.
Lang thang dem khuya

Thằng bé ăn mày kêu ới ới , hai cánh tay khẳng khiu bất lực huơ huơ phía trước. Ai trả lại chiếc gậy cho tôi đi! Trả lại đi, đừng đùa thế! Trả lại đi!… Giọng nó yếu lắm, chắc vì đói. Chờ mãi không thấy ai trả lại gậy, nó đành dò dẫm đi tiếp, điệu bộ trông thật buồn cười, cứ như nó đang lấy thăng bằng đi trên dây thép trong rạp xiếc. Bây giờ thay cho gõ gậy, nó thận trọng uớm thử chân hai lần trước mỗi bước đi. Bằng cách ấy nó có thể không vấp ngã, nhưng khốn nỗi điều quan trọng đối với nó là hướng đi chứ không phải đi như thế nào. Mà hướng nó đang đi tới hiện giờ là chiếc giếng thơi sâu rộng đầy nước của làng Thượng.
Ngồi dưới gốc đa, thằng chơi bi thích thú quan sát điều này. truyen ma
Ở các làng khác, giếng nước ăn luôn có bờ gạch bao quanh, là điều dễ hiểu, thế mà bao đời nay giếng làng Thượng không hề có cái bờ gạch bao quanh ấy, lại sát đường đi, nên nhiều lần trẻ con và cả trâu bò rơi xuống đó, nhưng luôn vào lúc đông người nên được vớt lên kịp. Khốn khổ thằng bé ăn mày. Nó cũng bị sẩy chân ngã xuống giếng và đã chết, vì bờ giếng lát gạch trơn chẳng có gì để bấu víu, vì nó quá yếu do đói ăn, vì xung quanh không có ai để vớt nó lên. Còn thằng bé chơi bi lếu láo kia thì thấy vậy liền hoảng sợ bỏ chạy về nhà…
Chuyện này xảy ra đã mấy chục năm nay, nhưng dân làng Thượng vẫn nhớ. Mà không chỉ có nhớ.
Phải ba ngày sau xác thằng bé mới nổi lên. Người ta chôn nó ở nghĩa địa Ðồng Chùa như chôn nhiều người vô gia cư chết đói trước đấy. Khác chăng, mộ của nó nhỏ hơn một chút, vì nó là con nít. Có điều đáng ngạc nhiên là không hiểu sao cái mộ bé nhỏ ấy của nó cứ mỗi ngày một lớn thêm, đến mức lấn át cả mộ cụ tổ họ Phạm thế lực nhất trong làng. Thường người ta vui với những trường hợp như thế. Phát mả đồng nghĩa với phát tài, phát lộc, nhưng đây lại là mả một thằng bé ăn mày, vậy thì phát gì? Phát nghề ăn mày à? Các vị chức sắc trong làng không giấu nổi vẻ lo lắng mơ hồ về một tai hoạ nào đó đang treo lơ lửng trên đầu. Cuối cùng cái tai họa ấy đã đến.
Sau nhiều năm liền mất mùa vì thiên tai, nhiều người làng Thượng xách bị đi ăn xin xứ người. Lúc đầu người ta không chú ý mấy đến hiện tượng này, vì xưa nay ăn mày chẳng hiếm. Nhưng khi số lượng gia tăng một cách đáng lo ngại, người ta bắt đầu nghĩ đến cái mả ăn mày phát kia. Sao các làng lân cận đói ăn chẳng kém mà chẳng mấy người làm cái nghề nhục nhã ấy? Vậy chắc đây là đòn báo oán của thằng bé nọ. Ðể giảm bớt tai hoạ, người ta xây mộ xi măng cho nó, bây giờ đã được gọi là Ông . Mấy năm sau xây miếu hẳn hoi, có bàn thờ và được hương khói cẩn thận đúng dịp, đúng quy cách. Dần dần, khi người ta thấy nghề ăn xin cũng không đến nỗi nào cả về thu nhập lẫn quan niệm xã hội (người làng Thượng bỏ nhà đi ăn xin có giấy chứng nhận đàng hoàng của xã, kèm theo chiếc dấu tròn đỏ chói). Tự lúc nào không biết, thằng bé ăn mày tội nghiệp nghiễm nhiên trở thành thành hoàng của làng Thượng, thay chỗ một vị tướng lừng danh thời Lê Mạc. Dần dần trong dân gian, tên làng cũng được gọi khác – Làng Ăn Mày!
*
Chính tôi là thằng bé chơi bi láo lếu ấy đấy, ông ạ , ông M. thở dài nói. ma
Ông là hàng xóm của tôi. Hàng xóm với nghĩa nhà cạnh nhau chứ giữa nghề viết lách của tôi và nghề buôn sắt vụn phát đạt của ông chẳng có gì liên quan. Ông quý tôi vì tôi nhiều chữ. Tôi chơi với ông vì ông nhiều tiền mà không hợm mình, và cả vì ông đồng ý để chúng tôi luân phiên nhau trả tiền bia ở quán Gió Mới bên cầu Long Biên. Xưa nay ông nổi tiếng hảo tâm, một nhà từ thiện đích thực. Có lẽ ông đã cúng tới hàng chục, nếu không muốn nói hàng trăm triệu đồng cho mục đích cao cả ấy, mà đối tượng bao giờ cũng là những đứa trẻ mù. Trường Nguyễn Ðình Chiểu coi ông như ân nhân. Một số trường khiếm thị ở các địa phương khác cũng vậy.
Lang thang dem khuya

Tất nhiên lúc ấy tôi chẳng dám cho ai biết tôi đã làm thằng bé ăn mày phải chết, – ông nói tiếp sau khi uống một hơi hết sạch vại bia. – Tôi hối hận và sợ lắm. May mà tháng sau bố tôi, một cán bộ cỡ ở Tổng cục Thống kê, đưa cả nhà lên sống hẳn ở Hà Nội. Từ bấy đến nay tôi chẳng một lần dám trở lại làng Thượng. Vì sao thì ông biết. Tuy vậy, tôi biết hết mọi chuyện xảy ra ở làng. Tôi hỏi thật nhé: Ông có mê tín không?
Không , tôi đáp.
Ông có tin vào báo ân, báo oán không?
Tôi không tin. Sao ông hỏi vậy? Ông tin à?
Ông M. trầm ngâm một chốc rồi nói, vẻ bần thần:
Cả có mà cả không. Nhưng tôi cứ thấy nó thế nào ấy, nhất là thời gian gần đây. Có lẽ tôi già rồi đâm lẩn thẩn. Nói ông đừng cười, đêm nào nằm ngủ tôi cũng nghe tiếng gõ chiếc gậy trúc của thằng bé kia và tiếng kêu yếu ớt Ai đó trả lại gậy cho tôi, đừng đùa . Tình hình có vẻ như ngày càng tồi tệ. Tôi chẳng biết phải tính sao đây. Ông khuyên tôi làm gì bây giờ?
Tôi ngồi im vì chẳng biết trả lời thế nào. doc truyen
Hay ông đi khám bác sĩ thần kinh, – cuối cùng tôi lên tiếng. – Thời này khối người căng thẳng như ông. Tôi cũng chẳng hơn gì. Còn chuyện thằng bé thì chỉ do ông hay nghĩ đến nó mà tưởng tượng ra thôi , tôi an ủi, mặc dù tự biết ở đây có cái gì đó nghiêm trọng và đáng sợ hơn nhiều.
Mấy hôm sau, trước lời năn nỉ của ông M., và cũng vì tò mò, tôi nhận lời cùng đi với ông về làng Thượng, Làng Ăn Mày.
Ông M. thắp hương, lầm rầm khấn vái hồi lâu trước bàn thờ thành hoàng làng mình. Trước đấy tôi cũng thắp một nén, gọi là tưởng nhớ vong linh thằng bé xấu số. Tôi tế nhị bỏ ra ngoài để ông được tự nhiên sám hối, hi vọng sẽ thanh thản hơn đôi chút. Bằng đức tính nhân từ vốn có và những việc làm từ thiện xưa nay, ông xứng đáng được hưởng một tuổi già thanh thản.
Tối hôm ấy chúng tôi ngủ lại nhà một người bà con xa của ông M.. Nhà ngói hẳn hoi, có tivi, có đài, anh con trai chủ nhà còn có cả xe máy, xe Nhật chứ chẳng phải Tàu. Từ lâu dân làng Thượng không còn xách bị đi ăn xin, nhưng người ta vẫn thành kính thờ cúng ông tổ ăn mày của làng. Ngôi mộ của ông đã phát càng phát thêm, nay gần giống một cái gò nhỏ, trẻ con không dám cho trâu bò dẫm lên.
Nửa đêm, tôi đang ngủ say sau một ngày đi đường vất vả thì bị ông M. túm tay áo giật mạnh. Ông hoảng hốt thì thầm:
Ông nhìn kìa. Ngài đấy!
Ngài nào? tôi ngạc nhiên hỏi vì chẳng thấy gì.
Thần hoàng làng Thượng! Ðứa bé ăn mày…
Ông M. không nói hết câu, liền sụp xuống đất, vái lạy liên hồi:
Con xin ngài tha tội. Dạ, con xin ngài tha tội. Con trót dại… Con chỉ đùa… Lúc ấy con còn nhỏ… Con xin ngài tha tội! Con xin ngài…
Ông làm sao thế? – tôi định đỡ ông dậy nhưng ông không chịu. – Tôi có thấy gì đâu! Ông vái lạy ai đấy?
Quả tôi không thấy gì thật. Nhưng ông M. vẫn tiếp tục cầu khẩn van xin. Dẫu chẳng tin ma quỷ và không thuộc loại nhát gan, tôi vẫn thấy ớn lạnh khắp người.
Lát sau, ông M. im lặng ngồi rũ xuống sàn nhà, thở hổn hển:
Ngài đi rồi. Ði mà chẳng nói gì cả. Nghĩa là ngài không tha thứ cho tôi. Trời ơi, tôi phải làm gì bây giờ?…
Lúc này tôi mới lọ mọ lại gần chiếc công tắc điện để bật đèn. Ông M. mặt cắt không còn hột máu. Ông ngồi yên trong tư thế ấy rất lâu, cuối cùng, như để xác minh về sự hiện diện có thật của ngài , ông quay sang tôi, chìa ra một viên bi thủy tinh bóng loáng dưới ánh đèn.
Ngài để lại đấy!
*
Sau đó có việc, tôi đi công tác xa ba tháng. Lúc về thì được tin ông M. đã chết. Người ta kể rằng ông hóa điên, đi đâu cũng ngửa tay xin ăn như thằng ăn mày. Bị con cháu nhốt trong nhà và cả ở bệnh viện tâm thần, gặp ai ông cũng xin. Có người cho hòn đá, ông rối rít cảm ơn, xúc động đến rơi nước mắt.
Một hôm, ông khôn khéo trốn khỏi bệnh viện. Ðến tối thì có người thấy ông nằm chết trong chiếc ao nhỏ cạnh Cầu Chui Gia Lâm. Vì ao hầu như không có nước, chỉ toàn bùn, nên ông không chìm. Ấy thế mà ông chết. Một điều lạ nữa là lúc chết ông đeo chiếc bị cói sát nách, tay giữ chặt chiếc gậy trúc già trơn bóng, những thứ trước đấy chưa ai nhìn thấy bao giờ.
Một người nhân đức nhường ấy mà phải chết thế thì thật tội nghiệp , ông trưởng dân phố nơi ông M. sống bùi ngùi nói khi người ta liệm ông vào quan tài.

Lượt xem